CẢM NHẬN CỦA BẠN ĐỌC VỀ 46 BÀI THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Nhiều Tác Giả
CẢM NHẬN CỦA BẠN ĐỌC VỀ
46 BÀI THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
*
Gồm 46 bài thơ:
1. HƯƠNG
QUÊ
2. HƯƠNG
THU
3. THU
LẠNH
4. THU
SỚM
5. MƠ
ĐÊM
6. EM
7. RƯỢU
SAY
8. ẨM
TRỜI
9. THIẾU
NỮ
10. NHỚ
MẸ
11. VỀ
QUÊ ĐI MÀY
12. VĂN
THÙY “DỊ NHÂN”
13.
ĐƯỜNG DÀI
14. LỠ
15. CHUNG
16. RU
CON
17.
CHIỀU LẠ
18. CHẤP
CHỚI
19. MỘT
TÔI
20. QUÊ
NGHÈO
21. GÁNH
HÁT
22. DẤU
HỎI
23. BẠN
QUAN
24. QUAN
TRƯỜNG
25. LAN
MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN
28. LAN
MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU
27. NHỚ
28.
NGƯỜI DƯNG
29. MƠ
TRĂNG
30. SAY
YÊU
31. ĐỜI
NGHỆ SĨ
32. ĐỜI KHÁT
33. VIẾT
CHO NGÀY VALENTINE
34. TIM
ĐAU
35. MEN
ĐẮNG
36. TÌNH
NỞ
37. TÔI
NGHE
38.
CUỒNG YÊU
39. HỒN
QUÊ
40. RÉT
CẰN
41. CÒN
YÊU
42. ĐỪNG
ĐI
43. HOA
NHÀI
44. VIẾT
CHO KHỜ
45. TRÒ
ĐỜI
46. THẾ
GIAN SAY
HƯƠNG QUÊ
Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm
Cô bé thậm thò vắt ngang dải yếm
Níu bờ sông
Ơi ời “ra ngõ mà trông”
Vi vút gió đồng...
Ngẩn ngơ
giấc mơ
Níu đôi bờ bằng dải yếm
Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm
Áo tứ thân trải lá lót nằm
Gom gió lại để chiều bớt rộng...
Thẩn thơ
Tiếng mơ thầm thĩ
“Người ơi...
Người ơi...”
Dan díu lời thề
Ngõ quê líu quíu.
*.
Hà Nội, chiều 31.08.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “HƯƠNG QUÊ”
Thơ Đặng Xuân Xuyến thường chơi cái trò ỡm ờ. Lời ít,
thấy nhiều, hiểu rộng, suy diễn sâu xa tùy người. Do đó thơ Đặng Xuân Xuyến
thường gặp phải hai dòng cảm ứng khác nhau: người cho dở kẻ khen hay.
Đọc bài thơ này thấy ngắn quá, có cái gì cụt cụt, thiếu
thiếu làm cho ta ấm ức trong lòng. Nhưng chính cái thiếu thiếu, cụt cụt đó làm
ta cứ thòm thèm như mới ăn nửa cái bánh thì bánh có dở cũng thành ngon mà bánh
ngon cũng chưa biết hết mùi vị chính xác thế nào. Cái đó thương thì nói nghệ
thuật mà ghét thì nói xảo thuật. Nghệ thuật hay xảo thuật thì cũng là một thành
công của sự kết cấu bài thơ, của ý đồ tác giả.
Đọc bài thơ ta thấy cái dải yếm nó lớn thật, nó vắt ngang
níu bờ sông, rồi nó làm náo động cả xóm làng: Ơi ời "ra ngõ mà trông". Sự náo động đó thật ra không phải của xóm
làng đâu mà là của chàng trai kia đến tuổi động yêu mà thôi. Cái "Hương cốm" cũng chưa chắc của nhà ai
đâu. Cái hương đó có thể tỏa ra từ dải yếm phơi bên bờ sông thơm đến độ nhà ai
cũng ngửi được mà cứ tưởng rằng của nhà bên cạnh duyềnh sang.
Cái thằng con trai cũng chết mê chết mệt. Nó ngẩn ngơ mơ
giữa ban ngày thấy sông, thấy nước, thấy gió, thấy cả trời chiều nằm trong yếm,
trong tóc, trong áo cô gái kia.
Nó ở bên này sông mà cô gái phơi yếm ở bên kia sông. Vậy
mà con mắt lãng mạn của nó thấy "níu
đôi bờ bằng dải yếm".
Rồi thì thằng con trai yêu đến độ tâm thần đi lang thang
và thì thầm trong miệng "Người
ơi...Người ơi...." Nó "dan
díu" thế thì chẳng khác chi Bùi Giáng dan díu với nàng Kim Cương xưa
vậy.
Người chơi ngọc có khi chưa mang chiếc kính nhìn ngọc thi
chưa thấy hết giá trị của nó đâu. Người đọc thơ cũng vậy, nên chịu khó nhìn thơ
qua con mắt lãng mạn của mình như mang chiếc kính kia thì sẽ khám phá được thơ
hay vậy./.
*
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
ĐẶNG XUÂN XUYẾN NÍU DẢI YẾM ĐI VỀ CÕI YÊU
Tôi mới biết và còn chưa kịp quen nhà thơ có lối viết rất
riêng này...
Tôi với nhà thơ cách nhau khá xa về tuổi tác, nên đọc
"Cưỡng Xuân" và một số tác phẩm khác của anh, tôi cứ phải
né né... nín nhịn từ xa mà vẫn chưa sao "thấu cảm" được với anh.
Rồi hôm nay tôi lục được bài này trong blog của anh. Tôi
thích nó. Tôi thích cái lối tưng tửng này. Cái già dặn hơi buông
tuồng, nửa "đồ nho" nửa "Tây bồi" như gói, như mở, như kín,
như hở ... rất lạ, khiến người đọc vừa đỏ mặt tý, vừa tò mò tý, vừa lại
như bừng bực, vừa khó chịu để rồi bị cuốn thụt lút trong mê đắm của mênh mang
tâm tưởng và men nồng như say như tỉnh của một loại rượu chả cần phải nhắp môi
cũng tự lâng lâng.
Tưng tửng "hắt" thiên hạ sang một bên
ngay từ câu đầu: "Hương
cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm".
Giọng điệu gì mà dửng dưng, vênh vênh, ngạo mạn một cách
khó chịu của một kẻ trai tự biết mình cao giá. Cái kiểu "Các người cứ làm
hàng cho các người tự ngắm đi, còn trai đây thì”... thì ba hồn bảy vía còn để ở
"cái dải yếm vắt ngang" của "cô
bé thậm thò..." kia. Rõ là đa tình đến độ và tinh ranh đến độ... đến
độ ngoa dụ cho nàng "níu bờ sông"
bằng cái dải yếm... rồi trầm trồ "Ơi
ời “ra ngõ mà trông" ...
Trông cái gì đây? chắc không phải chỉ trông cái dải yếm,
dù cái “dải yếm" đang phất phơ
"vi vút gió đồng" ... Không
cần giầu tưởng tượng lắm ta cũng thấy một tấm lưng thon thon nuột nà con gái
của dải yếm đã buông lơi, thấy thấp thoáng cặp tuyết lê kín hở khi cái yếm bung
dây bị gió đồng ren rén bồng lên phập phồng đùa giỡn…
Cái yếm thắm bung dải ngang phơ phất mặt sông, cái lưng
mịn nâu màu mật, cái cổ ngấn ba, cườm tay săn nhỏ như giữ, như cởi, như thắt,
như buông, như tung, như hứng theo nhịp dập dềnh phóng khoáng của gió lộng
chiều quê thanh vắng nên thơ... trên bên sông xanh nước in mây, trên bãi cỏ non
cạnh cánh đồng lúa ngô mướt mắt màu nõn biếc.
Một nét chấm phá cho một bức tranh. Một cuộc đòng đưa cho
cuộc tình mơ nồng nàn như mâm cỗ đầy có ngọn thịnh soạn, thơm tho... hình như
ai đó đã cất công và tỉ mẩn chuẩn bị, bày đặt... và ai đó cũng chỉ chờ có thế. Họ chờ, cùng chờ... "Chuốt
tóc mềm làm gối chăn êm, Áo tứ thân trải lá lót nằm..." Thơ chả nói đến ai, chả nhắc đến
ai... mà ai cũng rõ là AI "Gom gió lại để chiều bớt rộng "
...
Mà rồi chiều chẳng có rộng đi nữa thì họ vẫn gom gió lại.
Họ cần gì rộng hay chật vì bão giông đã nổi lên cuốn tình chìm nghỉm ...
chỉ còn dập dềnh dải yếm “nối đôi bờ".
Đôi bờ nào? Cần gì phải nói. Dải yếm đâu? Cần gì phải
hỏi? ... Cứ thả ra mà suy, cứ nhắm mắt lại mà tưởng...
Tình bồng bềnh, gió bồng bềnh, dải yếm bồng bềnh... trong
"Ngẩn ngơ giấc mơ..."...
Cái dải yếm thắt cho tình hai bờ khít lại, cái dải yếm
cởi cho "tòa thiên nhiên" (chữ trong Truyện Kiều) lồ lộ, cho hương ai
quyện vào gió ngát, và vị cỏ dịu ngọt, và ướt át sông nước mịn dòng quấy đạp
tùy nghi...
Một cuộc tình nên thơ với những câu từ trong cuộc nghe
như vô nghĩa, cứ nói để mà nói, nói không để nghe. .."Người ơi… Người
ơi..." ngôn từ được tác giả gọi bằng "tiếng mơ thầm thĩ". Rõ là chả có lời yêu, rõ là chả có lời mê
đắm mà chỉ có một cuộc tình như nó vốn đã là như thế, không cần lời, không cần
xoa xuýt âu yếm... mà chỉ với vô nghĩa từ, câm lặng bốc ngùn ngụt như hỏa diệm
sơn... mà lại vẫn có cái gì vụng trộm dấu diếm khi ta đọc đến
"Dan díu lời thề / Ngõ quê líu
quíu" thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của
phong tục làng quê.
Cuộc tình đó chất phác như hạt lúa củ khoai. Cuộc tình đó
là vô ngôn tình lại có cái gì đó như vội vàng dấu diếm, như trao gửi vụng
về, lại trong trẻo chân thành... vì từ ngữ là thừa, là tạp âm, là xáo trộn
nguồn yêu.
Nhưng trong những đắm say, những “thẩn thơ” với tình yêu "tiếng
mơ thầm thĩ" vẫn còn thốt ra những: "Dan díu lời thề" khiến "Ngõ quê líu quíu"... thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ
của xã hội, của phong tục làng quê. Tình yêu ấy bản năng trong trẻo và
mộc mạc, không tính toán, không ngoa ngôn kiểu cách, tự nhiên chân chất như con
sông, như bờ cỏ.
Một bài thơ ngắn, khá ngắn với từ ngữ mộc mạc, nói về cái
dải yếm, neo sông, cách tả hình không có hình, cách tả tình không có tình.
"Hương Quê" là bài thơ nói về
yêu mà không dùng một chữ yêu. Một bài thơ tả tình lồ lộ mà không
có một ngôn từ nào chỉ tình ấy, mà khi gặp nó, người đọc vẫn thấy ngồn
ngộn cảnh, ngồn ngộn tình, ngồn ngộn bão giông mây mưa ào ạt, thấy lớp lang của
sự dâng hiến, trao gửi cuộn trào.
Đó là cái tài tình và già dặn của một cây bút, mà khi ra
đời đã không còn nhìn thấy yếm áo lỏng lẻo gợi cảm của thiếu nữ nông thôn hay
thành thị lững lờ sau vuông yếm mỏng manh nửa kín nửa hở... mà viết như vậy
thì:
Nếu không có vốn kiến thức về xưa cũ, khó có thể viết ra
điều ấy. Nếu không hòa mình trong mê đắm cuộc tình cũng không thể
nào viết gợi thế được.
Với tôi, đây là bài thơ gợi tình thật đáng đọc. Đọc
để thấy Đặng Xuân Xuyến đang níu dải yếm đi về cõi yêu theo kiểu
độc đáo riêng mình.
*.
Hà Nội, 14 tháng 10.2017
BÙI CỬU TRƯỜNG
Địa chỉ: phố Trần Quang Diệu, phường Ô Chợ Dừa,
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
NGÕ QUÊ ĐỘC ĐÁO TRONG “HƯƠNG QUÊ”
Bài thơ viết về cái ngõ quê với
rất nhiều bảng lảng khói sương. Thật khó để bình luận vì tất cả thi ảnh ở đây
đều ẩn chứa cái phi lí tận cùng của phi lí. Cái hư ảo tận cùng của hư ảo. Câu
đầu tiên hiểu thế nào là nhà bên và hiểu thế nào là nhà hàng xóm mà hương cốm
đầu mùa đã duyềnh sang nhau. Sao cứ phải ợm ờ? Cái ợm ờ như các cụ vẫn bảo trăm
nhát cuốc bổ vào lòng cả trăm. Một câu thơ đã cho ta cảm nhận được mùi hương
cốm ở đây vừa quấn quýt, lan tỏa và quyện hòa, vừa thân thương ràng buộc hai
ngôi nhà và trong hai ngôi nhà đó có một chàng trai si tình và cô gái vắt ngang
dải yếm. Dải yếm là thứ để buộc chặt và che đậy sao ở đây nó lại vắt ngang và
vì sao nó lại vắt ngang thì may ra ông trời và Đặng Xuân Xuyến hiểu được mà
thôi. Còn chúng ta những kẻ trần tục làm sao có thể hiểu được? Phải chăng cái
dải yếm ấy vắt ngang để níu dòng sông để bắc cái cầu đón nhà thơ sang chơi. Tất
nhiên khi cái dải yếm được cởi ra để vắt ngang thì chắc chắn nhà thơ đã nhìn
thấy một bầu ngực căng đầy khát vọng. Vui quá nhà thơ cứ ời ợi gọi cả làng ra
mà trông chúng tôi đang làm cái việc mà chỉ có sức mạnh tình yêu mới có thể làm
được. Thật kì diệu cái dải yếm chỉ tày gang thôi mà sao ở đây cứ dài mãi ra đến
vô cùng có thể níu đôi bờ sông xích lại gần nhau cho những lứa đôi xum họp thay
cho con đò nhỏ mong manh. Để không còn tiếng gọi đó thảm khắc trong đêm.
Đến đây thì chất phồn thực đã
lấp đầy từng câu thơ, từng chữ thơ rồi. Họ đã làm được cái việc phi phàm nhất:
"Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm".
Bộ tóc được bao lăm mà có thể chuốt làm chăn làm gối. Ở đây qua câu thơ chở đầy
khát vọng đó ta chỉ thấy được cái đầu hầm hập nóng của nhà thơ đang được gối
lên và vùi lấp trong mái tóc dài sóng sả của em thôi. Cái dải yếm thì bỏ ra làm
cầu còn áo tứ thân cũng được cởi nốt để trải lá lót nằm! Bạo liệt quá họ chẳng
cần phải dấu diếm làm gì vì đó là đích đến cuối cùng của tình yêu và sự sinh
tồn nhân loại. Thế vẫn là chưa đủ đối với hai người đang khao khát thì chiều ở
đây như càng rộng thêm ra lấy gì để khỏa lấp chắn che? Đôi trai gái ấy lại làm
thêm một việc phi phàm nữa, họ đã níu được cả gió để buộc cho chiều bớt rộng để
đêm chóng về...và chỉ còn bóng đêm nhốt chặt hai con người đang khao khát. Có
phải thế không thi nhân?
Nhưng…Vẫn luôn tồn tại một chữ
nhưng oan nghiệt vì đây chỉ là: "Thẩn thơ / Tiếng mơ
thầm thĩ / “Người ơi... Người ơi...” / Dan díu lời thề / Ngõ quê líu quíu.”
Chỉ là một tiếng mơ thầm thĩ,
gian díu một lời thề trong cái ngõ quê líu quíu. Cái ngõ quê rất đặc trưng của
nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Trong đời chỉ có tình yêu trong
mơ là đẹp. Hay nói khác đi tình yêu chỉ là tiếng gọi thầm thĩ của những giấc mơ
chứ không bao giờ có thật.
Từ trong tiếng gọi mơ thầm thĩ
ấy bằng ngôn ngữ thi ca Đặng Xuân Xuyến đã sáng tạo ra một ngõ quê độc đáo nhất
trong đời… Tôi nghĩ thi ca luôn là như thế, luôn là sự vụt hiện lóe sáng của
cảm xúc, của tài năng!
Tôi rất mến yêu và trân trọng
những bài thơ đã đến được với sự tối giản của ngôn ngữ, nhưng lại chứa đựng tối
đa những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm cho chúng ta để cùng thăng hoa và
suy ngẫm./.
*
Bắc Ninh, 04 tháng 11.2018
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,
Phường Vệ An - Thành phố Bắc Ninh
HƯƠNG THU
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt
Da diết bổng trầm xao xác sông xưa
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen.
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân quen
Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới
Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
*.
Hà Nội, chiều 07 tháng 08
năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG THU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Giữa một đô thị như Hà Nội gần như đã chật cứng xe
cộ, nhà cửa, âm thanh… Trừ những người giàu có, quyền tước chiếm giữ được những
khoảng không gian riêng có cây che bóng mát cho những ô cửa sổ mở ra để nhìn
ngắm ánh trời… Còn cuộc sống của hầu hết mọi sinh linh chọn thành phố làm nơi
cư ngụ. Âm thanh chát chúa, khói bụi cay mù, xe cộ với tốc độ luồn lách… Nhìn
những dòng người, dòng xe với những chiếc mũ bảo hiểm dọc theo những con đường
nắng bốc hơi ngùn ngụt người đã thấy nôn nao như mình đã lạc sang một “tiểu
hành tinh” nào đấy mù xa… Không biết làm thế nào đấy mà người thơ vẫn có một
buổi chiều Hà Nội, vẫn dành riêng cho mình một cõi đắm say thanh thản. Ta như
nghe được tiếng reo của người đang chìa bàn tay chờ đón mùa thu bằng cảm giác
mùi hương.
Tạo hóa ban phát riêng cho những người làm thơ thứ
hạnh phúc không ai có thể tranh giành, không luật pháp khắc nghiệt nào có thể
ngăn trở tâm hồn người ta đến với cái đẹp; người thơ như được đứng riêng một
cõi:
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi tính
tang khoan nhặt
Da diết bổng trầm xao
xác sông xưa
“Tóc rối” của ai bay? Ai nhìn ai “mòn đuôi mắt”? Cái gì “bổng trầm”? Cái gì “xao xác” và “sông xưa” là
con sông nào mà thả được dòng trôi vào cái mảnh đất nhà cửa chen chúc những
khối bê tông thô ráp mệt mỏi dâng đầy giữa Hà Nội ngày càng ngột ngạt, chật hẹp
để người thơ vẽ nên chiều thu thơ mộng, lãng mạn?
Đọc đoạn hai bài thơ Hương thu
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ
nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt ve
thật khẽ
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen.
Đọc đến đây ta có thể khẳng định sự mơ hồ của “lá rơi” của ngọn “gió mơn man ve vuốt” của sắc trời chiều “biêng biếc”, thêm vào chút “hương
sen man mát” làm cho ngây ngất, mở lòng, chứ anh cũng chưa gặp mùa thu - vì còn phải hỏi chiều “thu đã về chưa”? Nhưng nào say đắm có
mất gì, khi lòng ta bỗng dưng bổi hổi, xao xuyến nhớ về một mùa thu đẹp đã đi
qua để lại cho hồn ta những vẻ đẹp, những màu sắc âm thanh sáng trong, ngập
ngừng, bối rối:
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân quen
Tí tách bếp ai dẻo thơm
cốm mới
Câu lý giao duyên ngập
ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
Thơ hay thường là những kỷ niệm đẹp nhưng phải được
cháy lên hoặc thắt quặn lòng mình.
Thêm vào một tay nghề … Hương thu có nhiều nét
đẹp nhưng mới chỉ dừng lại ở những “xốn xang”, còn “thiếu vị buồn”. Bởi cái gì
đẹp thăm thẳm thường pha thêm chút ánh buồn (Đẹp và buồn đi với nhau), như thế
bài thơ mới chiếm được hết lòng độc giả, mới làm mê mẩn người xem./.
*.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
“HƯƠNG THU” - ĐƠN GIẢN MÀ HỒN CỐT CÓ DUYÊN
Lâu lâu mới thấy một bài thơ không có âm tình phiêu
phưởng phảng phất liêu trai của Đặng Xuân Xuyến.
Cái mạnh của tác giả nằm ở chỗ cô đọng từ ý đến
ngôn từ. Vần điệu cứ tự nhiên tuôn ra một cách thoải mái trong cấu tứ:
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt.
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời...
Cô đọng đến mức tuyệt đối mà chặt chẽ, vừa đủ để
nhớ, làm bài thơ có vần điệu với tâm trạng thay đổi trước cảnh thu vàng.
Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả dùng đại từ nhân
xưng AI, tuy cách sử dụng không mới nhưng thật hợp với tâm sự mênh mang, hỏi mà
hỏi thôi, trong cái bề bộn của nỗi nhớ, của buổi chiều thu:
Tí tách bếp ai dẻo thơm
cốm mới.
Câu lý giao duyên ngập
ngừng bối rối.
Một sự tưởng tượng của thi nhân tức cảnh để bật
thành thơ, một tư duy thơ hợp lý và được độc giả chấp nhận lại tạo ra sức sống
cho thơ.
Không có nhân vật cụ thể kiểu như: mình về mình có
nhớ ta? Mặc dù chỉ là mặc định nhưng ai cũng thấy mình trong đó.
Rõ ràng bài thơ thật giản dị, không có mỹ từ, không
có ý tứ sâu xa, không gồng lên bằng cách tìm kiếm nhọc nhằn từ lạ trái lại thấy
gần gũi, dễ mến như đứng trước cô gái chân quê bình dị lại rất có duyên.
Ô kìa chiều!
Một sự phát hiện đột ngột nên buột miệng: Ô kìa! Từ
cái đột ngột ấy cảm xúc tuôn ra, bài thơ không có chủ đề vì nó nói lên rất
nhiều vấn đề mà cứ từ từ mở ra theo tưởng tượng nhiều hơn quan sát.
Quả thật tả chiều thu nhiều người làm lắm rồi nên
muôn hình muôn vẻ nhưng bài thơ Hương Thu này có một sức nặng nhất
định vì có hồn cốt, nghệ thuật nằm trong chính sự đơn giản mà tác giả vô tình
nắm được.
*.
Thành Nam, 03.10.2018
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
THU LẠNH
Người đã đi rồi, đi quá xa
Bỏ ta ở lại với quê nhà
Hôm nay về lại thăm làng Đá
Ngơ ngẩn chiều tà ta với ta…
Giếng nước còn trong, bậc đã rêu
Chênh chao chiều vọng tiếng cu gù
Tháng chín thôi mà... sao đã lạnh
Thu vàng vồi vội rải nắng hanh.
Ừ, trách gì đâu, chỉ nhớ thôi
Người đi thì cũng đã đi rồi
Nào ai biết được duyên mà đợi
Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi.
*
Hà Nội, chiều 20 tháng
10.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC THU PHAI VÀ THU LẠNH
(Thơ Trần Mai Ngân và Đặng Xuân Xuyến)
Hình như đọc thơ cũng có cái duyên tiền định. Kiếp
trước không biết tôi có quan hệ gì với hai nhà thơ này hay không mà kiếp này
đọc thơ họ, tôi luôn luôn cảm thấy có một sợi dây trong thơ của họ quấn quýt
lòng tôi, buôc tôi phải nghĩ phải suy và phải viết. Như hôm nay bài thơ Thu
Phai của Trần Mai Ngân và bài thơ Thu Lạnh của Đặng
Xuân Xuyến khiến cho tâm hồn tôi cũng thấy tâm trạng phai và lạnh. Lạ thay,
phai lạnh trong cuộc đời thì buồn nhưng phai lạnh trong cuộc tình lại thường
làm cho tâm hồn phong phú thêm. Điều đó được chứng minh ở hai bài thơ này, bởi
họ không có cuộc tình phai, lạnh thì làm gì có hai bài thơ làm cho ta cảm động.
Điều đó cũng được chứng minh khi tôi ngồi đọc thơ họ giữa thời tiết vào đông,
bên ngoài đang phai và đang lạnh thì tiếng lòng phai lạnh của họ trong thơ cũng
đem đến cho tôi những cảm xúc thăng hoa.
Đọc Thu Phai của Trần Mai Ngân
THU PHAI
Thắp hương sùng bái nỗi
đau
Gánh buồn ôm hết - ngọt
ngào cho ai
Giật mình sợi tóc Thu
phai
Làm sao nhuộm hết năm
dài xa xưa
*
TRẦN MAI NGÂN
ta thấy thu không phai chút nào mà kỷ niệm mùa thu
trong lòng tác giả cũng chẳng phai, chỉ có tóc trên đầu tác giả là phai mà
thôi. Vậy thì Trần Mai Ngân dùng tóc mình để nói về tuổi vào thu cúa cuộc đời
mình, một cuộc đời mà đeo đẳng một cuộc tình triền miên trong nỗi đau. Lạ thay,
nỗi đau đó lại được tác giả “Thắp hương
sùng bái” nghĩa là tôn sùng nó và hy sinh cho nó đến nỗi “Gánh buồn ôm hết- ngọt ngào cho ai”.
Không cần bíết sâu về cuộc tình ta cũng đoán định được, đây là một cuộc tình
lớn trong tâm hồn tác giả. Bài thơ cho ta thấy một thân phận trong tình yêu,
thân phận đó phải đối mặt với những nghịch lý trong tình trường, chịu đắng cay
với nỗi buồn ôm hết nhưng cũng bằng lòng với hạnh phúc của một thuở xa xưa nào
đó, đến nỗi muốn nhuộm lại những năm dài xa xưa ấy như nhuộm cho xanh lại mái
tóc mình. Thế nhưng cuộc tình khác với mái tóc, không làm sao nhuộm được.
Bài thơ ngắn nhưng ôm trọn biến cố của thời gian
vào lòng, thức dậy trong lòng người đọc những tình cảm khác lạ, trong đó sự ray
rứt và cảm mến, sự hờn dỗi và yêu đương, sự thiết tha và hời hợt xen lẫn cùng
nhau, khiến cho đọc nó ta như thấy mùa thu tuổi đời đang phai nhưng mùa thu của
ngày nào hình như còn hiện hửu mãi trong tim.
Qua “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến ta
thấy lạnh ngay, lạnh nhiều, lạnh cóng vì “Người
đã đi rồi, đi quá xa”. Bài thơ “Thu
lạnh” của Đặng Xuân Xuyến cho ta một khung cảnh còn héo hắt hơn “dấu xưa hồn thu thảo/ nền cũ bóng tịch
dương”.
Hình ảnh cái giếng năm xưa, nước vẫn còn trong
nhưng bậc cấp bước lên rêu phủ, giống như yêu vẫn còn nhưng tình đã hóa xa xôi.
Hình ảnh con chim cu gù và tiếng kêu của nó trong thu vàng nắng, trong mây tím
lưng trời làm cho bức tranh thu vô cùng xa vắng và nỗi buồn thu bàng bạc kia
phả xuống, len trong từng ngóc nghách của làng quê.
Những câu thơ buông xuôi, hờn dỗi:
“Ừ trách gì đâu, chỉ nhớ
thôi
Người đi thì cũng đã đi
rồi
Nào ai biết được duyên
mà đợi
Mây tím lưng trời, thôi,
cũng thôi”
nó không làm ta cảm thấy đau lòng như “Thu Phai”, nhưng nó làm cho cõi lòng ta
trống vắng đến vô cùng, hiu hắt đến vô tận. Trong cái khung cảnh hiu hắt đó,
con người cô đơn lại càng cảm thấy cô đơn hơn nữa, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã
thở dài một câu thườn thượt làm cho thu lạnh càng kéo dài lê thê đến tận cuối
chân trời: “Mây tím lưng trời, thôi, cũng
thôi”
Bài thơ cũng không dài lắm, không than van lắm, mà
sao nó khiến xao động lòng ta đến thế. Bởi vì tác giả dựng một bức tranh quê
quá thân yêu, chứa chan bao dấu tích, mà nay trở nên lặng lẽ đến vô cùng. Rồi
thì nhà thơ gởi vào bức tranh đó cõi lòng tê tái, tê tái nhưng vẫn gượng ép,
gượng ép chối bỏ sự tê tái của mình bằng những câu thơ bất cần, buông xuôi và
vu vơ hờn trách.
Tôi vô tình đọc hai bài thơ của hai tác giả một
lần, “Thu Phai” và “Thu Lạnh” đọc trong buổi đầu đông.
Những cơn gió phai và lạnh trong thơ lạ thay, làm cho tôi âm áp. Ngược lại, cơn
gió thổi đầu đông ngoài kía đem cái lạnh len lỏi vào phòng. Cả hai cơn gió đều
làm tôi se lòng, se lòng nhớ quá khứ tuổi thanh xuân ./.
*
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính,
Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
THU SỚM
Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa
Có nghe se lạnh gió chuyển mùa?
Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?
Có thấy nhà bên rúc rích cười?
Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi
Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi
Diều ai dìu dặt chòng chành nắng
Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.
*
Làng Đá, Hưng Yên
18.09.2015
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
SỚM THU, THU SỚM - THU BUỒN HAY VUI?
Đã mấy năm sống ở Sài
Gòn với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ,
trong tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu
đã thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của nhà thơ
Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm tôi bật nhớ ra mùa
thu đang về trên miền Bắc.
Mà cũng lạ, hai nhà thơ
tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau.
Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi
Em thì nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về
Làm Chi Nữa, nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài
thơ “đều là tiếng gọi người về trong
nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê hương mỗi
ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú đưa lên
bài Sớm Thu thì hôm nay
16/08 nhà thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm, một sáng tác được nâng niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai
bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân thật và rất đẹp của hai tâm hồn
trước cảnh Thu về.
Mặc dù đang vào ngưỡng
tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của nhà thơ lão thành
Nguyễn Khôi,
SỚM THU
"Sớm nay trời nhẹ lên cao" - thơ Xuân Diệu
-----
Sớm nay nghe hồn lành lạnh
Một trời sương trắng: ờ thu,
Cao Tầng ánh sao lấp lánh
Ban công vẳng tiếng chim Cu...
Chim Cu nhốt lồng gọi bạn
Mơ về một cánh rừng xa
Nhốt lồng khác chi bị
"hoạn"
Không còn được sướng mây mưa...
Đón thu lưng trời cao ốc
Quờ tay định tóm đám mây
Mây đen chừng đầy khí độc
Tạt qua tối xẩm mặt mày...
Cúc vàng mua về cắm lọ
Nhớ nhung lá đỏ cành Phong
Thu vàng nước Nga rực rỡ
Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...
Xuân tới 80 rồi nhỉ?
Sớm nay qua nẻo thu sang
Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ
Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...
*
Hà Nội, ngày 15-08-2016
NGUYỄN KHÔI
ta không thấy hình ảnh
lá vàng khi mùa thu tới mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đại đến cận đại,
từ cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đến Tản Đà, Lưu Trọng
Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi.
Mà với Nguyễn Khôi là
cảnh Sớm Thu rất hiện đại:
Sớm nay nghe hồn lành
lạnh
Một trời sương trắng: ờ
thu ,
Cao Tầng ánh sao lấp
lánh
Ban công vẳng tiếng chim
Cu
Có lành lạnh, có sương
trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà: Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu
bạch / Khói thu xây thành.
Đó là cái lạnh cái sương
trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và
không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng
chim Cu”. Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung
được ví như tiếng nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức
mà là tiếng chim Cu trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:
Chim Cu nhốt lồng gọi
bạn
Mơ về một cánh rừng xa
Nhốt lồng khác chi bị
"hoạn"
Không còn được sướng mây
mưa...
Tiếng kêu trong bức bối
khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang bị giam cầm tù
hãm.
Hơn một trăm năm trước,
đứng trên mặt đất làng Bùi, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên mới
thấy được:
Trời thu xanh ngắt
mấy tầng cao,
Nay nhà thơ Nguyễn Khôi
ở lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ
phàng đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:
Đón thu lưng trời cao ốc
Quờ tay định tóm đám mây
Mây đen chừng đầy khí
độc
Tạt qua tối xẩm mặt
mày...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân
thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ
nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em:
Em hỡi! Mùa thu đã đến
chưa?
Có nghe se lạnh gió
chuyển mùa
Có nghe thoang thoảng
thơm cốm mới?
Có thấy nhà bên rúc rích
cười?
Và bây giờ mới chắc chắn mùa Thu đã
đến thật:
Em nhỉ. Mùa thu đến thật
rồi
Sương chiều bảng lảng
rắc muôn nơi
Diều ai dìu dặt chòng
chành nắng
Vắt vẻo em cười. Ơ ...
đã thu.
Có gió chuyển mùa se
lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm
mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có
tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu
của em! Một Thu Sớm thật thanh bình, thật đáng yêu.
Từ tháng 8.1945, mùa Thu
đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi, mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay mùa thu
của “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi
buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả mùa Thu thiên nhiên vốn có: Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa
Nhà thơ Thâm Tâm từ
những “Chán ngán tình gia sầu ngất
ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới trong
khung cảnh “Mùa Thu Mới”:
Trái hồng trĩu xuống cây
rơm
Sáng nay mùa cốm dậy
thơm đầy làng
Lúa vươn thân hút ánh
vàng
Nguồn tươi vống nở thu
sang mát lành.
Nguyễn Đình Thi thì rất
vui khi so sánh hai trạng thái cảm xúc của mình về mùa thu trước và
mùa thu nay:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa
núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp
phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười
thiết tha
Rồi cuộc kháng chiến
chống Pháp 9 năm, mặc dầu đang chiến tranh, mùa thu cũng không bớt
đẹp đi chút nào: Sáng mát trong như sáng
năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Sau giải phóng Điện Biên
Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ
Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:
Ngẩng đầu lên: Trong
sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu xanh
thẳm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lắm!
Mây của ta, trời thẳm
của ta
Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa!
Sau khi nước nhà thống
nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường,
mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn
minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu
Sang của Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên
dáng, đẹp đến nỗi phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Dòng sông sang thu không
còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như
một con người đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương
Nam tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội
vã”. Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia
cùng bạn. Thu Sang đúng là đẹp hơn thơ!
Đến nay, người đứng đầu
đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ
nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm
Thu, Thu Sớm trong bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và
Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?
Với bài thơ rất chân
thực của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi bạn / Mơ về một cánh
rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây
đen chừng đầy khí độc/ Tạt qua tối xẩm mặt mày...”. Và chính vì
không vui được nên nhà thơ phải “Cúc vàng
mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:
Nhớ nhung lá đỏ cành
Phong
Thu vàng nước Nga rực rỡ
Buồn thay, ngồi
trong Sớm Thu ở nhà mình trên Thủ đô nước mình,
ngắm Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở
tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì lại nghe thấy: Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...
Sớm Thu nay buồn nên nhà
thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho tuổi 80 của mình: Xuân tới 80 rồi nhỉ?/ Sớm nay qua nẻo thu
sang. Và niềm hy vọng ấy khiến nhà thơ: Ngắm
hoa thấy lòng tươi trẻ/ Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh,
có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới.
Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng
cười rúc rích bên nhà hàng xóm, có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!
Nhưng hẳn bạn đọc còn
nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê
tôi nghèo lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao
cái làng Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp và vui như vậy.
Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?
Tôi nói chỉ là giấc mơ
thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà
thơ ca ngợi Thu Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ
Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng
Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ Nam Lộc đã soạn thành
một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến
của tuổi học trò:
Thu giăng heo may che
bóng cây lạnh này
Người cho em nghe câu
nhớ thương từng ngày…
Người mang cho em quen
môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em
rung những đêm lạnh lùng…
Nắng vấn vương nhẹ gót
chân
Trưng Vương vắng xa anh
rồi
Mùa thu đã qua một lần
Chợt nghe bâng khuâng lá
rơi đầy sân...
Và hàng trăm nhà thơ
khác chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:
Sài Gòn Thu đã chớm
sang
Em đi qua phố dịu
dàng như mơ
Mùa Thu đẹp tựa vần
thơ
Tim anh xao xuyến đến
giờ còn vương
Chả là giấc mơ mùa thu
cho Sài Gòn đó sao?
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp cho cái làng Đá quê
hương của anh. Mà nói như nhà văn Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư”. Bởi thế, tôi trân trọng tất cả những giấc mơ đẹp,
những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của bác Nguyễn Khôi và Thu
Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Tôi thành thực cầu chúc
cho hai nhà thơ:
Nhà thơ tuổi chú Nguyễn
Khôi sẽ luôn có những Sớm Thu với những giây
phút “ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ” và
sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:
Cùng với ánh quanh minh
còn mãi.
- Cho người vui
cảnh quên già.
Nhà thơ tuổi cháu Đặng
Xuân Xuyến cùng làng Đá quê anh sẽ có được đích thực những Thu
Sớm đẹp với “Diều ai dìu dặt
chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy trong thôn xóm.
*
Sài Gòn, Rằm tháng Bảy (17/08) 2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
MƠ ĐÊM
Đêm!
Trở mình
Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm
Giật mình
Ánh mắt nửa đêm
Hun hút đại ngàn gió hú...
Thèm trận cuồng lũ
Dào dào ngấu ải chờ mưa...
Khát...
Cong đêm...
Yên ả.
*.
Hà Nội, đêm 28 tháng 12.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ MƠ ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thực ra bài thơ MƠ ĐÊM
không hay bằng một số bài thơ tình khác của Đặng Xuân Xuyến. Tuy nhiên, tôi
thích cách cấu tạo tứ và sự ngắn gọn súc tích của bài thơ này!
Thơ Đặng Xuân Xuyến
thường cô đọng, súc tích, cảm xúc dồn nén, tứ thơ mới, ngôn ngữ giàu hình ảnh
so sánh. Bài MƠ ĐÊM là một ví dụ. Chỉ vỏn vẹn có 37 chữ mà bài thơ khái quát
được tâm trạng vô thức (MƠ) giữa cái trống trải cô đơn và niềm khát khao hạnh
phúc lứa đôi mãnh liệt ...
Từ ĐÊM ở đầu bài thơ
được tách ra đứng một mình như báo hiệu một sự cô đơn của nhân vật trữ tình
trong bài thơ. Đêm vừa là thời gian vừa là không gian mà ở đó con người có thể
ngủ một giấc bình yên và mơ những giấc mơ đẹp. Và cũng có thể là nỗi trằn trọc
không ngủ được với bao tâm trạng suy tư ... Ở đây, nhân vật trữ tình trong
trạng thái vô thức đang mơ về một cuộc tình đầy mãnh liệt: "Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm".
"Hơi ấm" ở đây là chủ thể
thứ hai, là EM. Câu thơ đi giữa hai làn gianh rất dễ rơi vào chủ nghĩa tự
nhiên nhưng nhà thơ đã rất ý nhị ... Nhưng rồi giấc mơ ấy, sự vội vã, niềm cháy
bỏng và mãnh liệt ấy vụt tan biến khi "giật
mình" thức tỉnh. Giờ thì chỉ còn lại có đêm và gió hú.
Cái "ánh mắt nửa đêm" ấy
chính là ánh mắt mở to của kẻ vừa mất đi giấc mơ hạnh phúc. Giờ chỉ còn lại sự
cô đơn trống trải với đêm hoang vắng nơi đại ngàn chỉ có gió ...và gió ...
Đêm ... bây giờ thì
không ngủ được. Trạng thái cô đơn trống trải dường như được thay thế bằng niềm
khát khao có thật ở cuộc đời. Sự mãnh liệt của tình yêu, của hạnh phúc lứa đôi
được so sánh như những "trận cuồng
lũ", như "ngấu ải chờ mưa",
chỉ có khát và khát ...
Kết thúc bài thơ lại trở
về với đêm, nhưng bây giờ là đêm yên ả. Dường như sau giấc MƠ ĐÊM quá xáo trộn
với tâm trạng đầy biến động, một giấc ngủ bình yên đến với nhà thơ. Và biết đâu niềm khát khao hạnh phúc sẽ thành hiện thực?
*.
Sài Gòn, ngày 09 tháng 01.2017
ĐỒNG DUY TOẠI
Email: toaiduyhd@yahoo.com.vn
MƠ ĐÊM - NỖI NIỀM XÓT XA CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không còn là giấc mơ đêm nữa mà là
sự khát khao của chính tác giả về một điều hoàn toàn bình thường trong cuộc
sống nhưng được Đặng Xuân Xuyến gói kín trong thi từ, thức cảnh.
Từ một cái “trở mình” trằn trọc đơn lẻ trong đêm, một vòng tay cuống cuồng cố
gắng “ghì hơi ấm” của tàng thức và
tất nhiên là sự hẫng hụt, bừng tỉnh khi hiểu ra cảnh ngộ!
Lạ lắm, lúc nửa đêm về sáng con người
ta thường trở về với mình một cách mộc mạc đến trần trụi. Xót xa lắm một cái “ghì” không khí, ghì dĩ vãng, ghì kỷ niệm
trong đêm. Nói ghì vậy thôi chứ, ghì cái hư vô không hình tướng thì chả bao giờ
thật được. Cái “hơi ấm” của ai đây
cũng vậy, cứ Liêu Trai bảng lảng, gặm nhấm một tâm thức mất lý trí trong cơn
nửa mơ nửa thực. Trong trạng thái đó một: ánh
mắt nửa đêm - Hun hút đại ngàn gió hú!
Ai có trải qua trạng thái tương tự
mới cảm hết được câu thơ rất thật mà cũng đắt này. Ánh mắt người thương nó vời
vợi lắm, như gọi mời cũng lại vừa ngăn cản, vừa trách móc, vừa yêu thương nên: hun hút đại ngàn gió hú là câu vừa đúng vừa hay mà cũng nói lên cả sự đa đoan, cắc
cớ của một khối tình mang xuống tuyền đài không tan.
Cái ánh mắt ấy thật gần mà cũng rất xa
xăm. Thổn thức trong đêm, thảng thốt với trạng thái, ắt như góp gió thành bão,
tức nước vỡ bờ: Thèm trận cuồng
lũ / Dào dào ngấu ải chờ mưa…
Cái ruộng muốn cải tạo đất thì người
nông dân phải cày vỡ lên, cho ải (khô) đi để chờ nước chảy hay mưa về. Đất này
“ngấu ải” có nghĩa đã đủ lắm rồi,
thời gian chờ đợi và khát khao đến tận cùng cứ thiêu đốt nỗi niềm riêng tư, sức
chịu đựng của con người .
Đất chính là người, chính là nỗi
khát khao tiềm ẩn thường trực trong tác giả. Nó đeo bám khắc khoải bên trong cái
vẻ bất cần đời, đằng sau cái miệng cười một nửa của Đặng Xuân
Xuyến. Tất cả dù chỉ là giấc mơ đêm đã đủ sức bẻ cong tác giả,
đủ sức phá nát một đêm vốn tưởng chừng yên ả! Một cái đêm tĩnh lặng bên ngoài
nhưng thực ra là: hun hút đại ngàn gió
hú.
Bây giờ nhiều người làm thơ lắm
nhưng để súc tích, ý nằm ngoài thơ thì ít lắm. Đa phần tả cảnh, dùng mỹ từ,
điển tích, thơ dài thườn thượt.... nhưng bài này có phần khác, tác giả cứ như
bình tĩnh móc thi tứ ra từ tâm thức và nhẹ nhàng sắp lên giấy một cách nhàn hạ.
Chính vì vậy ai cũng giật mình tưởng tác giả lôi lòng kéo ruột mình ra cho
thiên hạ tỏ tường.
Buông bài thơ xuống nhưng lòng lại
nhập vào cái bất an của tác giả và thấy mình cũng thổn thức, hồn hển
theo.
Và, cũng ngấu lắm cơn khát của đất
trời.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
EM
Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.
Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.
Trời đất như cuồng say
Ngả nghiêng theo nhịp phách
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu.
*.
Hà Nội, đêm 21 tháng 01 năm 2015
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
EM - MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Người ta ví von người phụ nữ như
lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương triều... quả
thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA “trinh bạch”
sừng sững được “nửa đời” người rồi.
Mở đầu, “TA” rất hồn nhiên, rất tự
tin vào bản lĩnh đàn ông vững chãi của mình nên đủng đỉnh “gạ” EM cạn chén.
Vâng, chỉ là “gạ” thôi, chứ không mời, không ép, không nghĩ sâu xa, mưu mô gì
cả. Chỉ đơn giản điều vì “TA” là đàn ông, còn EM là đàn bà, nên mới “gạ” em “cạn
chén”. Nghĩa là “ta” chỉ bông đùa chút chút với “em” cho vui, cho có khí thế,
chứ “ta” thừa biết, “em” sao uống được rượu với ta mà “cạn chén”. Ngạo nghễ là
thế, đủng đỉnh là thế, ấy vậy mà “ta” phải sững người với hành động của em: “Thế là em cạn ta”. Ô hay. “Gạ” người ta
cạn chén lại để người ta “cạn” mình thì chỉ có thi sĩ họ Đặng mới được trải
nghiệm.
Ở khổ thơ đầu, thi sĩ họ Đặng đã vẽ
một khung cảnh có 2 kẻ đang “vờn” nhau, chỉ để bông đùa nhau rất nhẹ nhàng, êm
ái, không một tiếng động nhưng đằng sau những cử chỉ (gạ rượu) rất nhẹ nhàng ấy
lại là những chuyển động thật mãnh liệt, kinh khủng và máu lửa ở sinh lý, ở tâm
trạng:
“Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.”
Ở khổ thơ này, tác giả viết như là
rất tự nhiên, như là không hề sắp xếp, bài trí, cứ nhẹ nhàng, cứ thanh thoát
giữa “ta” với “em”. Và người đọc dễ bị đánh lừa bởi khung cảnh yên ả, rồi trở
chiều (có vẻ) thuận chiều ấy. Người đọc như thấy tác giả của EM từ thế chủ động
thành thế bị động, từ “hung thủ” trở thành “nạn nhân” rất nhẹ nhàng, êm ái và
khá ngọt:
“Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta”
Một câu thán xuôi chiều, chấp nhận
tự nguyện không hề miễn cưỡng (Thế là em cạn ta), cũng rất “hồn nhiên”, tự
nhiên như sự gạ (rượu) ban đầu của “chàng”. Tâm trạng ấy cứ nhẹ nhàng, đều đều
dẫn người đọc đi hết khổ thơ, để bạn đọc chỉ hình dung thấy “chàng” đang bị
“nàng” “ăn thịt” trở lại. Và sự trở chiều ấy lại rất ngọt, rất khoái bởi “nửa
đời ta trễ hẹn” nên giờ “Em nồng nàn đốt ta” là hợp lẽ, là trên cả mong đợi.
Chỉ 4 câu thôi, “chàng” đã bộc bạch
cho mọi người biết là cả “chàng” và “nàng” đều đã cảm nhau từ lâu rồi, từ “nửa
đời” trước nhưng chỉ vì sự nhút nhát của chàng, sự e lệ, giấu kín của nàng mà
chuyến đò tình của 2 kẻ cảm nhau, yêu nhau mới “trễ hẹn”. Đến đây, người đọc
mới vỡ lẽ ồ thì ra việc “gạ” rượu của chàng chỉ là cái cớ, là phép “lửa đổ thêm
dầu” để tình yêu của nàng dành cho chàng bấy lâu phải bùng cháy.
Vào khổ thơ thứ 2, cũng vẫn sự nhẹ
nhàng, đều đều ấy nhưng mạch thơ nhanh hơn, nóng hơn, ngùn ngụt hơn:
“Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.”
Ở khổ thơ này, tác giả rất thành
công: Mỗi một câu thơ là một hình ảnh đẹp, say đắm của tình yêu đến từ hai
phía. Cả “em”, cả “ta” đều say đắm đến hoang dại, đến quên tất tật để tận hưởng
sự ngọt ngào của tình yêu. Rõ là viết về một cuộc làm tình, mà làm tình lại bạo
liệt, ấy thế mà không hề có một tiếng động nào mới lạ?! Chẳng lẽ cuộc làm tình
này cần kín đáo nên âm thanh hoan hỉ phải được điều tiết, cấm tiệt? Không phải
vậy! Cái tuyệt vời chính ở chỗ không có tiếng động ấy! Đọc, ta thấy 2 kẻ yêu
nhau đang rất trân trọng cái khoảnh khắc được đốt nhau ấy. Họ lặng lẽ cháy,
lặng lẽ dâng hiến và lặng lẽ tận hưởng men say của ái tình. Họ đến với nhau
bằng tình yêu, bằng sự dồn nén “thèm muốn” lâu ngày nên họ trân trọng thời khắc
yêu ấy mà lặng lẽ cùng nhau hoan hỉ!
“Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại.”
Ở 2 câu này, người đọc hình dung
“nàng” đang rất ngỡ ngàng, rất hạnh phúc bởi tiến triển tình cảm với “chàng” nên
“nàng” lặng lẽ dâng hiến, lặng lẽ tận hưởng. Nàng sợ, rất sợ sẽ mất chàng, mất
khoảnh khắc được yêu chàng nên nàng “run rẩy”, nàng “ghì”, nàng “quấn” chàng
bằng cái tình yêu mãnh liệt mà bản năng của con người (hoang dại) nhưng rất
gượng nhẹ, êm ái và trân trọng, nâng niu. Một loạt động từ mạnh được nàng sử
dụng khi làm tình, ấy thế mà ta lại không nghe thấy một tiếng động nào, dù chỉ
là tiếng rên, tiếng phì phò, hổn hển phải có để cuộc làm tình được gọi là thăng
hoa. Cái hay, cái tuyệt của thi sĩ họ Đặng là ở đây, là ở cách tả tình nóng
bỏng mà không cần đến sự phụ trợ của âm thanh.
Tiếp 2 câu cuối của khổ 2:
“Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say”
Ở 2 câu này, hình ảnh TA (chàng)
hiện lên khá hoàn chỉnh sự hoan hỉ của chiến thắng. Từ “thẫn người” đến “ngây
dại” đều chung biểu cảm trạng thái hoan hỉ của sự toại nguyện, của niềm vui
chiến thắng. Hình ảnh chàng nhâm nhi “uống em từng giọt say” đã chỉ rõ chàng là
gã thợ săn đích thực và nàng tưởng là kẻ đảo chiều quay lại ăn thịt chàng thì
thực chất nàng chỉ là con mồi trong bữa tiệc ân ái của chàng mà thôi.
Từ thế chủ động tấn công: “Ta gạ em cạn chén”, rơi vào thế bị động,
trở thành nạn nhân: “Thế là em cạn ta”.
Rồi từ thế bị động: “Thẫn người, ta ngây
dại” lại chuyển sang thế chủ động: “Uống
em từng giọt say”... đọc qua, tưởng vậy mà lại không phải vậy vì để ý kỹ
mới thấy “TA” hoàn toàn làm chủ “thế trận”, “em” chỉ là người bị “TA” giật dây,
điều khiển.
Đến khổ 3, là khổ cuối của bài thơ,
theo cảm nghĩ của riêng tôi thì hình như tác giả viết để kết thúc bài thơ cho
phải phép nên không đầu tư câu chữ, cảm xúc, vì thế mà kém hay.
Đọc xong bài thơ, điều tôi thắc mắc
vẫn cứ ở sự khó hiểu của 2 câu kết:
“Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu”
Tôi hỏi mà không trả lời được là sao
“ta” phải giữ gìn sự trinh bạch ấy? Chẳng lẽ “ta” không ham ái tình? Và nữa,
“em” là thế nào mà “nhuộm ta ngả màu”? Sự ngả màu ấy là hàm ý tiếc nuối bị mất
đời trai trinh trắng hay sự hoan hỉ vì đời trai khờ khạo đã được ngả màu?
Ôi! Chàng Đặng Xuân Xuyến này, sao
cứ bắt người đọc phải trăn trở về tình yêu của mình như thế? Chẳng lẽ không thể
viết rõ hơn được sao, chàng Đặng?!
*.
Hà Nội, tháng 02 năm 2015
GIÁP KIỀU HƯNG
RƯỢU SAY
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Nào nhấc chén lên. Cạn để say
Men tình chiu chắt ủ bấy nay
Đêm nay ta hứa say cùng bạn
Thế gian? Điên đảo được mấy ngày?
Thôi kệ cuộc đời. Ta cứ say
Rượu ngọt đào thơm vơi lại đầy
Ta kệ Cuội già từ cung Quế
Khẩn khoản mời ta ghé đôi ngày.
Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta được say.
*
Hà Nội, đêm 04 tháng 10 năm
2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RƯỢU SAY”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Rượu say là cuộc độc ẩm của nhà
thơ dưới trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn
khích:
Ừ này thì
rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri
âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa
thích
Cho trời cùng đất ngất
ngưởng say.
Thế rồi say trong men tình chiu
chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà
thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn
khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé đâu.
Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén
rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta
chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta
được say.
Bài thơ là một tưởng tượng đẹp,
phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão
huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Đà thế kỷ trước cũng
vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm
thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã ai ngồi
đó chửa?
Cành đa xin
chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung trăng bầu
bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống
mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi
trần quá buồn chán.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
ẨM TRỜI
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm hương
Mấy ngày hôm nay mưa tợn
Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn.
*.
Hà Nội, 13 tháng 03.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“ẨM TRỜI” - MỘT PHONG CÁCH TÌNH KHÁC LẠ
Có những bài thơ nói về tình
yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng như bướm bay, lãng mạn như gió trăng
và êm đềm như tiếng suối chảy. Cũng có những bài thơ nói về tình
yêu thiên về nhục dục hừng hực như lửa cháy, cuồng nộ như con thiêu
thân sa vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ nói về
tình yêu như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn thể
hiện sự độc đáo của một phong cách yêu. Vậy phong cách yêu là gì?
Đó là cách xử sự trong tình yêu tạo nên cái riêng của một người hay
một lớp người nào đó. “Ẩm Trời” của Đặng Xuân Xuyến
là một bài thơ thể hiện một phong cách yêu riêng của tác giả. Bài
thơ không chỉ nói về một đêm hẹn hò ái ân mà thật ra nó ẩn chứa
tình cảm, tâm lý của một lớp người đã già dặn trong tình trường.
Mở đầu bài thơ tác giả đề cập
đến một lời mời gọi:Em gạ một đêm
chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương
Câu thơ đầu cho thấy tác giả
được cô gái “gạ tình”. “Gạ tình” nghĩa là gì? Nghĩa là những hành
vi, cử chỉ, cách cư xử hướng vào sự khác biệt giới tính để đưa tới
yêu đương, ở đây là ân ái. Cô gái muốn có “một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương” nghĩa là cô ta
đã biết bạn, biết ta đều đã lâu ngày không gần gũi người khác giới.
Cái cớ để cô gái gạ tình cũng vô cùng mới lạ. Cô nói như một người
già lắm: Mấy ngày hôm nay mưa tợn/ Ẩm
trời, khó ở, thấy ghê.
Thường thì người già sẽ khó
ở, thấy ghê mình mỗi khi mưa tợn, ẩm trời nên thích nằm riêng, xa rời
người khác phái. Ở đây, ngược lại mưa tợn, ẩm trời làm nhục dục cô
gái gia tăng nên cô mời gọi. Cô gái làm như mình gìà lắm, mượn cái
cớ lão thành để bông đùa trong lời mời ân ái của mình. Cô mời gọi
một cách thẳng thừng, không úp mở, giống như hai người đàn ông rủ
nhau đi làm vài ly rượu.
Qua khổ thơ này ta cảm nhận được
gì ở nhân cách cô gái kia? Cô không là người bán dâm, cũng không là
người cho dâm dễ dàng. Với lời mời gọi vừa trắng trợn, vừa trịch
thượng, lại khôn khéo lồng thời tiết vào câu chuyện của mình chứng
tỏ cô là người trường trải, khôn ngoan, thẳng thắn và có khiếu hài
hước. Với nhân cách này, chắc chăn cô phải gởi vàng đúng nơi mà cô
chọn chứ không phải đem cho không bừa bãi. Vậy vì sao cô gạ tình tưởng
như sỗ sàng?. Thật ra nếu cô gái không là tri kỷ của tác giả thì hai
người cũng phải hiểu nhau và tâm đắc cùng nhau giữa cuộc đời này. Qua
hai khổ thơ đối đáp, ta cảm được sự thâm giao giữa hai người. Họ có
một sự đồng điệu trong đối đáp cùng nhau. Họ có một phong cách riêng
âu yếm cùng nhau khác với thường tình. Họ có thể đã yêu nhau rồi
nhưng bày tỏ tình yêu theo cách riêng của họ.
Bây giờ ta hãy nói đến chàng
trai. Chàng trai cũng mồm mép không thua gì cô gái: Ừ thì một đêm thôi nhé/ Mai đừng, nữa gạ
một đêm/ Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn
Người ta có thể tìm thấy trong
ca dao hay trong thơ những câu đối đáp rất hay của những chàng trai trả
lời cô gái đang gặt lúa trên đồng hay ban đêm giã gạo cùng nhau. Những
câu đó chắc chắn rất trữ tình nhưng chắc chắn không bao giờ thân ái
như lời thơ trong khổ thơ này. “Ừ thì
một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói với em. Chúng
ta tưởng tượng lời từ của miệng chàng trai thốt ra âu yếm vô cùng, ấm
áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, nữa gạ một đêm”: Câu thơ không phải là
lời từ chối, ngược lại đó là lời hẹn hò những đêm kế tiếp bằng
một câu bông đùa tế nhị. Tác giả thật tuyệt vời khi
xuống hai câu thơ chót: Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn.
Dựa vào thời tiết sẽ còn mưa
lâu dài, tác giả hứa hẹn ngày tháng có nhau còn dài không bằng
những lời thề thốt mà bằng một lời cảnh báo sẽ hao mòn thân xác
nếu cứ bên nhau. Tất nhiên đây là một câu bông đùa, một lời dọa có
tác dụng ngược lại, đem cho cô gái niềm vui hy vọng được kề cận với
tác giả lâu dài. Câu thơ “Da đây thịt đấy đến mòn” bày tỏ sự hoà
hợp thân xác giữa hai người. Đừng nghĩ đây là một câu thơ có nhiều
dục tính. Ta nên hiểu rằng bài thơ chỉ mới là lời đùa cợt, tất cả
đều chưa vượt qua giới hạn của sự thanh khiết. Vì vậy câu thơ bày tỏ
“da” và “thịt” gắn bó với nhau đến hao mòn cũng là lời nói chơi nơi
cửa miệng. Do phong cách yêu độc đáo của riêng mình mà phong cách bày
tỏ cho nhau cũng khác lạ, khiến cho lời tỏ tình nghe thì thô nhưng nó
đậm đà hơn tất cả những lời tỏ tình mà thơ thường hay diễn
đạt.
“Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn
gọn tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không
phải thế. Đọc thơ ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ
phải là những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình
trường, dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có
thể yêu nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ
biết họ trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô
thiển.
Bài thơ hay là hay ở chỗ đó,
diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy
ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở
chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một
nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ
rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những
tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng
và cảm mến../.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
THIẾU NỮ
Ô kìa người ngọc giữa sớm mai
Áo xiêm trễ nải chả chịu cài
Ngực nõn phập phồng ru hồn gió
Bổng đảo in hồng trong mắt ai.
*.
Hà Nội, ngày 05/02/2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẾN VỚI “THIẾU NỮ”, BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Trong không khí mùa xuân Đinh Dậu
(2017), mọi người của thế kỷ 21 này đón xuân, đón tết cổ truyền không còn thèm
khát ở sự ăn mà ở sự chơi, hưởng thú vui tinh thần, không màng đến “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ”. Nhưng tìm
thú vui tinh thần đâu phải dễ dàng, bởi xã hội tình người vô cảm, âu lo và bất
an nhiễm vào hồn người như một căn bệnh - căn bệnh của loài người.
May mắn thay tôi đọc được bài thơ “Thiếu nữ” của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ
cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ
như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng
câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc. Ôi đã là
đàn ông không biết thưởng thức vẻ đẹp của “Thiếu
nữ” chẳng đáng buồn sao!
Đầu đề bài thơ là “Thiếu nữ” nghĩa là tuổi còn tơ non như
hoa đương nụ, như trăng mới nhú, gái ở tuổi dậy thì. Tàng ẩn những điều kỳ diệu
cho hồn tha hồ tưởng tượng, sự tưởng tượng đến bến bờ yêu say đắm và dịu ngọt
trong hồn không thể cưỡng được. Đến nỗi nhà thơ phải thốt lên: “Ô kìa” - “Ô kìa người ngọc giữa sớm mai”. Chữ “Ô kìa” như sự thảng thốt bất ngờ ngoài ý tưởng. Có gì khác thường,
khác với thông lệ, khác với nếp nghĩ của nhà thơ. Chắc nhà thơ nghĩ rằng người
đẹp sẽ phải đoan trang e lệ, “Dín gió e
sương”, nhất là giữa sớm mai càng phải kín đáo hơn. Chữ sớm mai biểu thị
thời gian tươi mới nõn nà của thiếu nữ. Thế mà thiếu nữ ấy: “Áo xiêm trễ nải chả chịu cài”. Một bức
tranh nude cho người xem tưởng đến trường phái hội họa thời phục hưng rất gợi
cảm và gợi dục. Xưa ở Việt Nam nữ sỹ Xuân Hương đã vẽ bức tranh thiếu nữ ngủ
ngày rất phồn thực: “Thiếu nữ nằm chơi
quá giấc nồng/… Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa
thông/ Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong”.
Bức tranh thơ của Đặng Xuân Xuyến
chỉ là bức tranh phồn thực mờ, đòi hỏi sức tưởng tượng, nude nhưng mờ ảo. “Chả chịu cài” có nghĩa là có phần kín có
phần hở và phải có phẩn hở phần kín mới nên thơ. Gợi giác quan cảm xúc. Chất
thi sỹ cũng là ở đây, nếu hở quá lộ quá sẽ không còn thơ nữa, chính vì vậy: “Ngực nõn phập phồng ru hồn gió”. Gió bị
ru hồn hay thi nhân bị thôi miên, thiếu chữ “ru hồn gió” sẽ mất thiêng, gió còn bị ru hồn thì người còn bị ru
hồn hơn. Nếu nói ngôn ngữ của tuổi trẻ thì còn bị “Phê” hơn.
Nếu đổi lại câu thơ “Phập phồng ngực nõn” thì sẽ bị giảm cái
hay cái thực của chủ thể “Ngực nõn”.
Chẳng khác gì nói: “Hồng thắm làn môi”
mà phải nói “làn môi hồng thắm” mới
chính xác. Thế mới biết làm thơ như đánh cờ, như sự sắp đặt cuộc đời vậy. Đánh
cờ quân nào đi trước, đứng trước, quân nào đi sau, ván cờ tình yêu - cuộc sống
cũng vậy, cũng phải có luật chơi và phải hiểu luật mới chơi được. Chữ “Ru hồn gió” tạo chất say của câu thơ,
tài của nhà thơ là biết điều khiển câu chữ cho hợp với đạo thơ. “Bồng đảo in hồng trong mắt ai” hay ở chữ
“in hồng”. Trong mắt như có lửa - lửa
của đắm say, nhưng chỉ hồng thôi mà không chói, sự đam mê vừa tới, vừa đủ. Chói
quá - nhìn kỹ quá sợ làm đau bồng đảo. Cách thưởng thức vẻ đẹp bằng sức cảm của
tâm hồn không trần tục thì mới là thơ.
“Trong
mắt ai” nhà thơ nhìn thấy mà lại “trong
mắt ai”. Lòng thi sỹ cảm giác vẻ đẹp ấy là của trời, không phải của mình,
có chút gì đấy như sự “ghen”, ghen
với đời, bâng quơ ghen với ai, sự ghen đáng yêu của tuổi 50 tự biết mình, tiếc
cho mình!
Ôi. Trong mùa xuân khao khát niềm
vui tinh thần hơn vật chất này, được thưởng một bài thơ “Thiếu nữ” - Nude như xem bức tranh bằng hồn thật đáng quý biết bao!
*
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai
Bà Trưng, Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
BỨC TRANH "THIẾU NỮ" ĐẶC SẮC CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Nếu mấy năm trước, được
nhiều cô gái khác yêu thương nhưng chàng trai ấy đã không dám hôn nhân lần nữa
vì cảm thấy mình đã chớm già, sợ cưới nhau rồi trước là pháo hoa sau cũng ra
tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ, sợ đến nỗi có lúc đã cảm thấy chán cái
vị yêu đương mới:
Ta bỗng chán vị yêu nhạt
thếch
Xộc xệch tình
Lếch thếch tiếng yêu.
Thì năm nay, cái sự chán
vị yêu nhạt thếch ấy dường như đã tan biến khiến trái tim chàng đã biết say mê
rung động trước một vẻ đẹp thiếu nữ:
Ô kìa người ngọc giữa
sớm mai
Áo xiêm trễ nải chả chịu
cài
Ngực nõn phập phồng ru
hồn gió
Bồng đảo in hồng trong
mắt ai.
(Thiếu nữ)
Bài thơ tứ tuyệt với bức
tranh một thiếu nữ đẹp giữa cảnh sớm mai của mùa Xuân đã khiến nhà thơ Nguyễn
Thanh Lâm phải tốn công gõ phím với cả ngàn chữ bình luận rất xác đáng: “Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những
bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm
bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên
bóng hình của người đẹp - người ngọc”.
Người ngọc - Thiếu nữ đã
là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân, vì vậy thơ Đông thơ
Tây đã có cả ngàn bài tuyệt tác ca ngợi vẻ xinh đẹp của thiếu nữ. Nhưng ở Á
Đông, do những hủ tục bất nhân, những tập quán ti tiện, xem thường vai trò của
người phụ nữ trong xã hội cũ, thơ ca có phần dè dặt khi tôn vinh vẻ đẹp đó. Ba
nhà thơ Đường trứ danh của Trung Quốc như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Xương
Linh, trước vẻ đẹp của các cô gái hái sen đã không ai bảo ai mà cùng phóng bút
viết nên mấy khúc ca diễm tình cùng chung một tên là Thái liên khúc (Khúc hát
hái sen).
Đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Bạch cư Dị: Một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng chèo
chiếc thuyền nhỏ giữa một đầm sen để hái hoa và vô tình thấy chàng trai đang
đắm đuối nhìn mình, người thiếu nữ thẹn thùng, muốn nói chẳng nên lời, để đến
nỗi đánh rơi chiếc trâm cài đầu xuống đáy ao lúc nào chẳng hay:
Sóng đưa lá, gió rung
hoa
Đầm sen thuyền nhỏ lướt
qua thấy chàng
Cúi đầu thẹn, chẳng nói
năng
Ao sâu rơi xuống chiếc
trâm cài đầu
Thái Liên Khúc (Bạch Cư Dị-Hải Đà dịch)
Đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Lý Bạch: Một khuôn mặt đẹp như hoa, hồn nhiên, nhí
nhảnh, ngây thơ bên ngòi Nhược Da, dưới bầu trời cao rộng, trời xanh nước biếc,
nắng hồng, hoa trắng giao hòa tạo ra một vẻ đẹp thanh tao huyền ảo:
Có cô con gái nhà
ai,
Hái sen, chơi ở bên ngòi
Nhược Da.
Mặt hoa cười cách đoá
hoa,
Cùng ai nói nói mặn mà
thêm xinh.
Áo quần mặc mới sáng
tinh,
Nắng soi đáy nước rung
rinh bóng lồng.
Thơm thơ vạt áo gió
tung,
Bay lên phấp phới trong
không ngạt ngào.
Thái liên khúc (Lý Bạch-Tản Đà dịch)
Và đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Vương Xương Linh: Màu quần lụa của cô gái lẫn một màu
giữa rừng lá sen xanh thắm chập chùng, mặt nàng tươi như hoa thắm khó mà thấy,
bỗng đâu một tiếng hát khe khẽ ngân vang mới biết có bóng người:
Lá sen quần lụa một màu,
Mặt tươi hoa thắm như
nhau mặn nồng.
Dưới ao trà trộn khôn
trông,
Nghe ca mới biết là
trong có người.
Thái liên khúc (Trần Trọng Kim dịch)
Ba bức tranh thiếu nữ
hái sen với những nét vẽ khác nhau đều tuyệt đẹp. Nhưng vẻ đẹp thiếu nữ đó chỉ
thuần khiết là một vẻ đẹp thanh xuân trong trắng tựa hoa sen.
Ở ta, mới cách nay vài
chục năm, người đọc cũng chỉ thấy trong thơ hình ảnh những thiếu nữ đẹp ngây
thơ trong sáng như người thiếu nữ bên hồ Xuân trong thơ mới của Thế Lữ: Trên vừng trán ngây thơ, trong sáng/ Vẩn vơ
qua một áng hương buồn/ Giây lâu cô vẫn như còn/ Lâng lâng trông gửi tâm hồn
lên cao.
Mà không thể thấy được
một bức tranh thiếu nữ nào với vẻ đẹp phồn thực của những áo xiêm trễ nải, ngực
nõn, bồng đảo đầy quyến rũ như thiếu nữ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.
Một bài thơ Đường được
coi là sexy nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa là bài “Thanh Bình điệu” do Đường
Minh Hoàng đã lệnh cho Lý Bạch làm để ca ngợi Dương quý phi. Dương qúy phi vốn
là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy.
Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc
Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba
dân số Trung Hoa thời đó. Nhưng dưới ngọn bút tài hoa của Lý Bạch, vẻ đẹp viên
mãn và gợi dục của Dương Quý Phi sau một đêm làm tình với nhà vua cũng chỉ như
một đóa nhánh hồng tươi ướt đẫm sương:
Một nhánh hồng tươi, móc
đọng sương,
Mây mưa Vu giúp uổng sầu
thương
Và hình ảnh sexy của
Dương quý phi cũng chỉ được diễn tả trong hai câu thơ trác tuyệt này:
Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ
mây,
Hiên sương phơ phất gió
xuân bay
Không phải là vẻ đẹp
kiêu sa ngồn ngộn của xác thịt như bộ ngực hay đôi vú mà chỉ là một vẻ đẹp mờ
ảo như mây như sương như gió.
Vậy mà, câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” được
xếp vào hàng câu thơ gợi dục nhất của cả ngàn năm nay. Câu thơ này, mới hơn một
năm trước đây đã khiến một vị anh hùng lao động của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam bị ném đá tơi bời khi người anh hùng đã trăm tuổi này, Giáo
sư Vũ Khiêu lấy nguyên vẹn câu thơ tả dâm phụ đó làm câu đối: "Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng
y thường hoa tưởng dung” để tặng cho hoa hậu Kỳ Duyên, một cô gái chưa
chồng chỉ nhỉnh hơn chắt nội gái của cụ Quốc sư có vài tuổi.
Giờ đem đặt câu thơ Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây được coi là
câu thơ sexy hết mực ấy bên cạnh những câu tả vẻ đẹp phồn thực của thiếu nữ
trong thơ Đặng Xuân Xuyến ta thấy vẻ đẹp kiêu sa của Dương Quý Phi chỉ là một
vẻ đẹp của một người mây mờ áo còn vẻ đẹp của thiếu nữ lại là một vẻ đẹp rất
phồn thực và rất cụ thể với áo xiêm trễ nải, bộ ngực nõn và đôi gò bồng đảo in
hồng vào mắt người chiêm ngưỡng.
Tôi đồ rằng khi chụp bức
tranh thiếu nữ này Đặng Xuân Xuyến đã không quên nghĩ đến bức tranh thiếu nữ
trong thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
Đôi gò bồng đảo sương
còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối
chửa thông
Rõ ràng, thiếu nữ trong
thơ Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã sexy hơn, gợi dục hơn thiếu nữ trong thơ
Đặng Xuân Xuyến ở câu: “Một lạch đào
nguyên suối chửa thông”. Nhưng thiếu nữ của Bà chúa là thiếu nữ ngủ ngày và
bị chụp bởi đôi mắt đầy dục vọng của “Quân
tử dùng dằng đi chẳng dứt” còn thiếu nữ của Đặng Xuân Xuyến là thiếu nữ
đứng trong gió xuân giữa sớm mai được chiêm ngưỡng bằng cái “Ru hồn gió” vì say mê của tác giả. Nhà
thơ hiện đại học tập và kế thừa nhà thơ lớn của dân tộc như vậy là vừa đủ và
thật đáng khích lệ.
- Trích từ bài viết
CHÀNG TRAI ẤY BÂY GIỜ RA SAO -
*
DƯƠNG NINH NINH
Email:
duongninhsg@gmail.com
NHỚ MẸ
Lòng quặn thắt
Nhớ những chiều nắng tắt
Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà
Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà
Cha ở phương xa
Chúng con còn bé dại
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai
Sương buốt sớm mai
Nắng táp trưa hè nhễ nhại
Mẹ gửi đồng xa tiếng cười
Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt
Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát
Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt
Nước mắt ngược vào tim mặn chát
Con muốn hỏi trời cao
Con muốn cào đất rộng
Đâu là lẽ công bằng
Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay
Sao lắm cơ cực đắng cay
Lặng thầm qua đời mẹ
Tan nát lòng con trẻ
Con về thăm mẹ
Thơ thẩn vào ra hương khói nghẹn ngào.
*.
Làng Đá, 02 tháng 07 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “NHỚ MẸ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ
rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu
hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế đã
được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo
của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau
mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại /
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới
làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của
người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy
thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của
người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời
cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng
ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con
trai: Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt
/ Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số
phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện
tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của
trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.
Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật
đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và
đẹp về lòng hiếu thảo.
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
VỀ QUÊ ĐI MÀY
- Với Nguyễn Xuân Thành
-
Mày về quê chơi đi
Tao lại dạy mày chơi trò trận giả
Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá
Lông nhông đầu làng cuối ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo
Đủ trò
Mày khờ khạo
Tao ngây ngô
Nghéo tay cưới chung một vợ
Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở
To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.
Mày về quê chơi đi
Biền biệt thế
Bặt tin như thế
Tao nhớ mày
Rượu tao uống chẳng say
Đêm cuối cùng mày nói thật hay
Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ
Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại
Hai mấy năm trời
Nước chảy bèo trôi...
Mày về quê chơi đi
Về với tao. Về với thời thơ dại
Về đi mày
Đừng lời nói gió bay.
*.
Làng Đá, Ngày 11 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VỀ QUÊ ĐI MÀY - TIẾNG GỌI CỦA
NHÀ THƠ HAY CỦA THỜI THƠ DẠI?
Tôi xa Hà Nội không phải “năm
lên mười tám” như nỗi lòng một người đã xa Hà Nội trong một nhạc phẩm nổi
tiếng từ hơn 60 năm trước, mà là năm tôi mới lên mười bẩy. Tôi xa Hà Nội cũng
không được như người đó “khi vừa biết yêu” mà là tôi chưa hề biết yêu
và thật lòng cũng chẳng biết có ai đó đã yêu tôi (!)?. Tôi xa Hà Nội cũng không
vì một biến cố trọng đại của chung xã hội hay của riêng gia đình tôi mà chỉ là
một duyên cớ rất đời thường: Thi được một suất học bổng sang Sing học tập. Do
vậy, khi nhận được giấy báo phải xa Hà Nội, trong tôi đã cuộn sóng những niềm
vui sướng suốt cả hai tháng trời chờ đợi. Chỉ đến khi ngồi trên máy bay, tôi
mới thấy một nỗi buồn cô đơn xâm chiếm lòng mình mặc dù chuyến bay có đủ cả
trăm hành khách. Tôi bắt đầu thấy thiếu vắng gia đình, thiếu vắng bè bạn rồi
bất chợt nhận ra cái thiếu vắng lớn nhất là một khoảng trời rộng lớn, đó là Hà
Nội quê tôi. Vâng, Hà Nội quê tôi, mặc dù nơi tôi sinh ra và lớn lên chỉ là một
con ngõ nhỏ trong lòng phồn hoa của Hà Nội, nhưng bố tôi bảo hơn 10 đời nhà ta
đã sống trên mảnh đất ngõ này, trong căn nhà nhỏ thân thương này đã được tạo
dựng và tu đi đi sửa lại cũng đã mấy trăm năm.
Học xong, đi làm cho công ty người
nước ngoài, những thiếu vắng trên càng dầy lên trong tâm hồn tôi. Những nỗi
buồn vì xa gia đình, xa bè bạn may nhờ có cái máy tính, cái điện thoại nên
nhiều lúc vẫn có thể vừa trò chuyện vừa nhìn thấy người trò chuyện với mình.
Vẫn thấy được những khuôn mặt hiền lành như Phật của ông bà nội ngoại; vẫn thấy
được nét đẹp thanh tú và giọng nói dịu hiền của mẹ cùng đôi mắt sáng vừa hiền
từ vừa nghiêm khắc và những lời khuyên ân cần của bố; vẫn thấy được khuôn mặt
ngây thơ nũng nịu của đứa em gái nhỏ luôn nhắc chị bao giò về thì đưa em
đi ăn kem Tràng Tiền nhé và vẫn thấy được những dáng vẻ tinh anh cùng
những câu nói mày tao chí tớ thân thiết chia vui chia buồn của lũ bạn. Nhưng
còn Hà Nội quê tôi trong đó có cái ngõ hẹp với ngôi nhà thân thương của tôi thì
sao mà nhìn thấy và chuyện trò cùng chúng?
Chiều cuối tuần được nghỉ việc, sau
khi đọc và trả lời hết các thư điện tử của lũ bạn gửi từ Hà Nội, lòng tôi như
một dòng sông ngập tràn nỗi nhớ nhung về chúng. Để đỡ buồn, tôi lên net và thật
bất ngờ, khi vừa mở một trang mạng thì 4 tiếng “Về quê đi mày” bật lên trước mắt tôi rồi chúng vang lên thành một
tiếng gọi vừa rất quen vừa rất lạ. Phải chăng lũ bạn tôi, tất cả chúng nó đang
hòa chung giọng thiết tha gọi tôi: “Về
quê đi mày”? Nhưng chỉ mấy giây sau, tôi hiểu ra mình đã bị ảo thanh bởi đó
là tên một bài thơ của Đặng Xuân Xuyến mới đưa lên trang Nhà văn Lê Xuân Quang
hôm đầu tuần. Bài thơ ghi rõ cả tên người bạn được gọi: Với Nguyễn Xuân
Thành chứ đâu phải với tôi. Nhưng tôi vẫn chăm chú đọc nó.
Vỏn vẹn 26 câu thơ tự do, toàn những
lời tiếng bình dị đời thường không một từ trau chuốt, bài thơ được mở đầu bằng
một lời nhắn gọi:
Mày về quê chơi đi
Thói thường khi nói đến mấy
tiếng “về quê chơi”, người ta sẽ nghĩ ngay đến chuyện về thăm nơi chôn rau
cắt rốn của mình, về cái làng ta phong cảnh hữu tình thân yêu, nơi có
triền đê, lũy tre, cánh đồng, phiên chợ… và những người dân quê cần cù một
nắng hai sương trong đó có những người ruột thịt họ hàng của ta. Nhưng suốt bài
thơ của Đặng Xuân Xuyến, ta không hề bắt gặp một cảnh vật và một con người hữu
tình nào như vậy. Thậm chí, ở cuối bài, tác giả có ghi rõ tên quê mình là Làng
Đá, một làng quê nổi danh ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên với tích truyện
ngôi chùa Đá, nhưng trong “Về quê đi mày”, tuyệt nhiên cũng
không thấy một câu, một hình ảnh, một dấu tích nào về ngôi chùa lịch sử
cổ kính có từ thời nhà Lý ấy. Mà “Mày về quê chơi đi” là để:
Tao lại dạy mày chơi trò
trận giả
Mày lại dạy tao bóng
chuyền bóng đá
Lông nhông đầu làng cuối
ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo
Đủ trò
Hai tiếng “đủ trò” tưởng đã là hết nhưng chưa, bởi còn thêm cái trò này
nữa:
Mày khờ khạo
Tao ngây ngô
Nghéo tay cưới chung một
vợ
Bọn bạn bảo tao mày 2
thằng dở
To xác rồi đầu vẫn cứ
ngu ngơ.
Đến đây thì ta đã rõ, “Mày về quê chơi đi” của Đặng Xuân
Xuyến không phải là lời rủ một người bạn về quê chơi mà là tiếng nhắn gọi người
bạn đó về quê để hai đứa “to xác rồi” sẽ cùng nhau chơi lại những trò
ngu ngơ thời con trẻ.
Nhưng tội nghiệp, sau một chuỗi lời
gọi bạn tha thiết ấy, hình như không nghe có tiếng hồi vọng khiến tâm hồn nhà
thơ nghẹn lắng lại. Anh lại cất tiếng gọi “Mày về quê chơi
đi” lần thứ hai rồi thở dài buồn tủi nhắc nhớ bạn về tình cảnh ly biệt của
hai đứa:
Biền biệt thế
Bặt tin như thế
Và anh kể lể nỗi lòng nhớ
thương bạn của mình:
Tao nhớ mày
Rượu tao uống chẳng say
Mỗi người đều có một nỗi nhớ bạn cho
riêng mình. Người bình dân trong Ca dao nói “nhớ bạn chơi vơi”, thì
ở đây Đặng Xuân Xuyến nói nhớ bạn “rượu uống chẳng say”. Phải chăng đây là
rượu vừa uống vừa chờ bạn về để cùng chung chén nên không thể được phép
say?
Đúng là nhà thơ không say thât. Anh
còn nhớ rất kỹ cái đêm cuối cùng trước khi bạn chia tay, giờ nói ra vừa để bạn
ở xa cùng nhớ lại vừa kín đáo gửi vào đó một hờn trách nhẹ nhàng con người đã
quên lời hẹn ước:
Đêm cuối cùng mày nói
thật hay
Khắc trong tim bạn hiền
tri kỷ
Nghéo tay tao hẹn ngày
trở lại
Hai mấy năm trời
Nước chảy bèo trôi...
Vậy mà buồn thay, vẫn lại không nghe
có tiếng hồi vọng. Quá tam ba bận, nhà thơ đành phải cố cất tiếng gọi lần thứ
ba:
Mày về quê chơi đi
Và lần này thì thôi, không kể lể
nhắc nhớ cho thêm dài lời mà chốt lại rõ ràng dứt khoát:
Về với tao. Về với thời
thơ dại
Rồi nhấn thêm:
Về đi mày
Tiếng gọi ngắn hẳn, nghe có vẻ hụt
hơi. Nhưng không, đó là chính là lời thúc giục để kèm theo câu nói cuối cùng
vừa có ý dặn dò vừa có ý răn đe:
Đừng lời nói gió bay.
Như vậy qua chữ nghĩa rất bộc tuệch
của 26 câu thơ, ta thấy “Về quê đi
mày” là tiếng một người bạn gọi một người bạn thân biệt tăm đã lâu mau
về quê để cùng nhau chơi lại đủ trò ngây ngô khờ khạo thời thơ dại. Với tên
người được gọi đã được ghi cụ thể ở đầu bài thơ, liệu đây có phải là tiếng
thực của nhà thơ gọi bạn?
Xin hãy giả tưởng, người bạn của nhà
thơ đọc được bài thơ này, nghe được lời nhắn gọi của bạn trong những vần thơ
này và lần này anh ta không “lời
nói gió bay” như “Hai mấy
năm trơi/ Nước chảy bèo trôi..,” đã qua; anh ta sẽ về quê thật, thì
đôi bạn có cùng nhau sẽ sống lại “đủ trò” như tác giả đã hứa với bạn
không? Tôi tin là không, hoàn toàn không thể có lại được “đủ trò” thơ dại ấy. Làm sao có thể
tưởng ra cảnh hai kẻ đàn ông đang ở cái tuổi tri thiên mệnh, mắt đã phai
và má đã hóp về đến quê lại có thể cùng nhau:
Lông nhông đầu làng cuối
ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo…
và khờ khạo ngây ngô:
Nghéo tay cưới chung một
vợ?
Chính tác giả đã nói, đó là “2
thằng dở”, theo tiếng nói ở quê anh, còn dân ngõ quê tôi Hà Nội gọi là hai
thằng rồ! Thế thì làm sao họ có thể diễn cảnh hai thằng dở, hai thằng rồ như
vậy. Người ta có thể nhớ về thời thơ dại, ôn lại kỷ niệm của một thời vụng dại,
lưu luyến đôi chút với cái quá khứ đã một đi không trở lại đó chứ sao có thể
níu kéo nó lại được, nói gì đến việc sẽ lặp lại nó thêm một lần nữa trong đời
khi ta đã thành người lớn.
Vì không thể có lại được những trò
thơ dại ấy nên “Về quê đi mày”,
thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh
lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những
âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó
vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong tâm hồn mỗi người. Sau
mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong
những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh
thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây
ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng
mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi
anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc
những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang
thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại
thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô
khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó
vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.
Bây giờ, tôi lại mong cái giọng hòa
âm “Về quê đi mày” của lũ bạn tôi từ Hà Nội vang lên một lần nữa.
Nhưng cũng lại là vô vọng. Thay vì cái ảo thanh tôi mong muốn ấy chỉ là mấy
tiếng bip bip của điện thoại báo có tin nhắn: “Chàng
nhà tao bảo, mai chủ nhật ăn bún chả nhé! Tao hỏi, đi ăn ở quán Ôbama mới ăn
hồi sang Hà Nội gần đây? Chàng lắc đầu: Không, ăn ở nhà do em làm cơ. Mày về
với tao đi, về cùng tao vào bếp rồi cùng nhau ăn như hồi xưa hai chúng
mình đã từng lăng xăng phụ mẹ tao mỗi lần bà làm bún chả ở bếp nhà tao để chiều
mồm chúng mình ấy!”
Là tin nhắn của cái Hằng đã cùng tôi
chung trường chung lớp 12 năm từ Tiểu học đến hết Trung học. Nó dịu dàng yểu
điệu như một đóa hoa đẹp lại được bà mẹ giỏi nữ công gia chánh dạy cho nhiều
thứ nên bọn tôi gọi nó là Hằng Thục Nữ. Chàng nhà nó hay chồng nó bây giờ là
dân công sở, lớn hơn nó 6 tuổi, dắt lưng mấy cái bằng học thực, bị nó đánh sét
từ khi nó mới lên lớp 10. Gã đã kiên trì ủ mầm tình yêu nó, chờ nó học xong Sư
phạm Mẫu giáo là xin cưới liền tay. Giờ họ đã có một bé trai kháu khỉnh gần 2
tuổi.
Đọc tin nó nhắn, tôi đã toan nhắn
mắng lại nó:
“Con
Nỡm, mày thừa biết tao đang ở xa Hà Nội cả nghìn cây số lại thêm cơm áo không
đùa với kẻ làm thuê cho người nước ngoài, sao lại đưa cái món bún chả Hà Nội
khoái khẩu của tao ra để nhem thèm tao thế?”.
Nhưng nghĩ vui thế thôi chứ tôi
biết, con bạn thân của tôi nó đâu có nhem thèm tôi mà chính nó đang nhớ tôi hay
đúng hơn là nhớ một thoáng thơ dại của chúng tôi, những buổi tôi đến nhà nó
cùng nhau lăng xăng phụ bếp bên mẹ nó làm một bữa bún chả ngon lành…
Vì vậy, tôi không vội nhắn lại cho
nó một chữ mà đợi trưa mai, tôi sẽ mở hộp thư gửi cho nó bài thơ Về
quê đi mày của Đặng Xuân Xuyến cùng đôi dòng tản bình của tôi để, sau
khi xong bữa bún chả cho chàng nhà nó, nó sẽ đọc rồi tha hồ mà thương nhớ thời
thơ dại mới qua chưa lâu của chúng tôi.
*
DƯƠNG NINH NINH
Email: duongninhsg@gmail.com
ĐỌC ‘VỀ QUÊ ĐI MÀY’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Ha...ha...một căn bệnh
thời đại.
Có khác chi nhiều người
đâu?! Tác giả thèm gặp lại bạn xưa, thèm sống lại kỷ niệm xưa, thèm gặp lại
mình... của ngày xưa!
“Mày về quê chơi đi”, tiếng gọi luyến tiếc, năn nỉ đến mấy lần, làm
toàn bài thơ cứ đau đáu, trầm buồn nhưng lạ là không bi lụy.
Bài thơ này không thấy
tác giả gọi rông nữa vì tình cảm của “Về Quê Đi Mày” là nghiêm túc thật sự,
thông qua một tình bạn ngây ngô từ thời thơ dại để làm phương tiện cho vấn đề
đáng nói hơn đó là tình yêu quê hương đất nước. Có như vậy người đọc mới thấy
thú.
Cám ơn tác giả Đặng Xuân
Xuyến đã để đất cho người đọc thấy hứng, thấy tò mò, rồi tự mình khám phá tác
giả, khám phá mình vì nương theo ý thơ lúc nào không biết.
Thế mạnh của tác giả nằm
ở lối chơi chữ, nếu mê mẩn thì câu chữ cứ dễ dàng tuôn ra, cảm xúc cũng vỡ oà
làm tứ thơ cô đọng, xúc tích, dễ thăng hoa cùng tác giả.
Cháu tôi vừa hỏi: - Ông ơi thơ là gì mà sao ông và mọi người cứ
chúi chụi vào nó vây??.
Tôi trả lời: - Thú thật ông cũng không biết thơ là gì vì
nếu biết được, định nghĩa được thì ông đã ngồi trên toà sen văn học rồi chứ
không phải cái danh xưng: hội nhà văn nhạt nhẽo, đua đòi như bây giờ.
Bài thơ cứ mạch đơn giản
như thế, dân dã như thế, cô đọng, xúc tích hóm hỉnh như thế kéo dài toàn bài.
Hay!
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ dán tem "thơ bụi'. (1)
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười tim héo.
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở.
Giả ngố
Mượn chữ bày trò
Vác thơ
Tưng tửng.
................
(1):
Chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Khôi
*.
Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “VĂN THÙY DỊ NHÂN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi đã được đọc thơ và một số bài viết ca ngợi nhà thơ
Văn Thùy in báo và đăng trên trang mạng rộng rãi, nhưng chưa một lần gặp mặt.
Tình cờ một ngày đầu xuân năm nay (tháng 3/2017) tôi sang Ân Thi - Hưng Yên
thăm nhà người bạn và gặp Văn Thùy cũng có mặt trong cuộc vui không hẹn này.
Thì ra anh là người cùng quê với anh bạn trẻ tôi quen. Còn Văn Thùy không biết
hàng ngày và ở những cuộc gặp gỡ khác anh ăn vận ra sao. Trước mặt tôi lúc này
với chiếc nón nan rộng vành và tấm áo dài thâm phai màu, chưa thể nhìn được
khuôn mặt, bộ râu cùng mái tóc muối tiêu tung tỏa … nom anh như nhân vật dấu
mặt trong những bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung từ đâu xuất hiện. Có lẽ hình ảnh
nón nan với áo trùng than này đã tạo cho người đời nhìn nhà thơ Văn Thùy thành
“Dị nhân” đi kèm với tuổi tên chăng? Tôi quan sát anh khi xếp thứ “áo nón
phường tuồng” đi, là một ông lão tuy đã râu tóc phai màu nhưng còn nhanh nhẹn,
đôi mắt sáng, bộ comple tôn thêm vẻ ngoài đĩnh đạc của một thi nhân khi hai tay
đón lấy chén trà… Tan cuộc, anh tặng tôi hai tập sách dày dặn: Tập thơ “Mảnh ghép của thơ Việt” và tập “Thư pháp” có nhiều bức vẽ chữ cho chính
những câu thơ anh tâm đắc đã gửi cùng đời. Và anh khoe đã bán được hơn “BẨY
CHỤC TRIỆU ĐỒNG” sau hàng tháng bán thơ, vẽ thơ ở Văn Miếu - Hà Nội…
Ngày tháng trôi đi… chiều qua tôi đọc được bài thơ của
Đặng Xuân Xuyến vẽ chân dung của người thơ Văn Thùy đã gợi lại những câu thơ và
nét thư pháp bâng khuâng của con người xương thịt “Văn Thùy” khi tiễn tôi ở Ân
Thi ra về thêm một đoạn đường, không nón để râu tóc được tự do bay trong gió.
Nhưng khi sống cùng thơ trong bức chân dung của Đặng Xuân Xuyến vẽ anh thì say
thơ, mê thơ đến “cuống quýt”, “lử đử” như đã bị thơ lấy mất đi hồn vía,
lấy mất đi chính cả cuộc đời đã hơn bẩy mươi năm bút mực dốc cạn mà không biết
có phút nào nhận ra mình:
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ, dán
tem “thơ bụi”
Câu thơ như thể nét cắt sắc lẻm, đau tận xương tủy cho
những ai đã đi cùng thơ sắp hết đời mình với bao mơ mộng chứa chan khi cầm bút
từng mong, không thi hào thi bá thì cũng để lại chút danh thơm như Nguyễn Công
Trứ từng ghi “Đã sinh ra ở trong trời
đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Giờ nhìn lại, còn lại:
“Dăm ba bài thơ dán tem
“thơ bụi”
Đau hơn, cuộc sống bình thường, đời thường no đói, giàu
nghèo, sang hèn gì ai cũng có một tổ ấm vợ, con xum họp mới là đời người, mới
là cuộc sống… Người thơ ở đây không biết còn lý do gì ngoài sự mê đắm thi ca
hay chỉ vì “Dăm ba bài thơ dán tem thơ
bụi” đã đổi cả hạnh phúc êm ấm gia đình:
Thiếu vợ
Thiếu con.
Viết đến đây, hình ảnh Văn Thùy để đầu trần phóng xe tiễn
tôi thêm một quãng qua thị trấn Ân Thi bỗng thoáng hiện về trong trí nhớ: Một
người hơn bẩy mươi tuổi còn tháo vát nhanh nhẹn như vậy, anh như tự lý giải cho
những câu thơ của Đặng Xuân Xuyến, lý giải cuộc đời này:
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở
Đã thế thì anh việc gì phải: Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/
Tưng tửng như Đặng Xuân Xuyến đã khắc họa? Bởi
tất cả từng trải, mất mát và bao nhiêu nỗi buồn đau của giấc mơ bệnh lý do nàng
thơ ám ảnh suốt cả đời người đã làm cho con tim khô héo, có thể phẩy tay “Thây kệ thế gian…” thì con người Văn
Thùy cũng đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào đời với cái nhìn khinh bạc thật sự, không
cần “Giả ngố”, không cần phải “Mượn chữ bày trò” anh đã đem chính những
câu thơ mình, dùng thêm “hoa tay thư pháp”
vẽ thành tranh trước Văn Miếu, Quốc Tử Giám bán cho bàn dân thiên hạ. Liệu có
bao người làm thơ dám đem ra bán giữa chợ đời như anh.
Qua bài thơ Văn
Thùy “Dị nhân”, Đặng Xuân Xuyến đã thành công ở những nét đặc tả một dạng
thi sĩ số phận lận đận trong cuộc sống cơm áo con người.
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
VĂN THÙY DỊ NHÂN HAY KỲ NHÂN
Đọc Văn Thùy “Dị Nhân”
của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết
về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn
Thùy “Dị Nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai
gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài
thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một
người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều
người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “Dị Nhân” là bài thơ như
thế.
Bài thơ không hề kể lể, chau
chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”...
Này nhé:
Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
không tả trời, không tả đất,
không tả người... mà hình dạng thi nhân đã ngất ngưởng bước ra. Cứ cái đà đồng
đảo này thì thi nhân sẽ “kinh thiên - động địa” chẳng khác Nguyễn Công Trứ,
chẳng kém Tú Xương, nhưng không, tác giả đã cho người đọc biết mình nhầm để
tỉnh ngay khi đọc tiếp đến câu thơ nhẹ nhàng mà thôi thúc, ngắn gọn mà súc
tích, tĩnh mà tỉnh:
Cả đời
đánh đổi
được gì?
Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả
là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời.
Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là
lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự
hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải,
bình báo ngay sau đó: “Dăm ba bài thơ dán
tem thơ bụi”.
Rồi tiếp:
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười
tim héo
Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả
thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên
cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng
tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và
công nhận cái giá của sự say xưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ
bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng
lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được
sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.
Tác giả thơ lại tiếp tục điềm
tĩnh, công tâm, phán nhận: “Đời lắt léo/
Phận eo sèo” rồi nhập tâm nhập thần mà nói hộ tâm trạng, bản lĩnh của Văn
Thùy “dị nhân”: “Thây kệ thế gian úp mở”.
Những câu thơ: “Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng
tửng” được cất
lên bằng giọng điệu bất cần và hài hài, đã khắc họa nổi bật lão thi sĩ với hình
ảnh ngạo ngạo, ngông ngông, dị dị mà tài hoa và bản lĩnh. Thử hỏi, không tài
hoa, không bản lĩnh thì làm sao lão thi sĩ có thái độ ngông ngạo, bất cần: “Thây kệ thế gian úp mở”? Không tài hoa,
không bản lĩnh thì lão “dị nhân” có thể “mượn
chữ bày trò” khiến thiên hạ phải mắt tròn mắt dẹt?! Hình ảnh thi sĩ “vác thơ/ tưng tửng” khiến ta liên tưởng
nghĩ tới hình ảnh Đức Chúa Giê Su vác cây thánh giá đi khắp cõi truyền giảng
đạo, cứu nhân độ thế. Đọc đến đây, đến câu cuối bài thơ thì cái dáng dấp hình
thể, cái thần thái hồn vía của lão thi sĩ dị nhân ngất ngưởng, ngông ngạo,
không phải là Văn Thùy “dị nhân” thì là của ai mà nhập hồn nhập bóng này được?!
Văn Thùy xứng lắm chứ. Chân dung này thật xác thực và sống động. Nó cựa quậy
đồng đảo lắm chứ. Tôi đồ rằng, tác giả vẽ chân dung này phải là người có tài
quan sát và tinh tế lắm mới có thể khắc họa “hô sĩ nhập hồn” chân dung quậy sĩ dị nhân Văn Thùy thêm kỳ kỳ, ngộ
ngộ.
Xin thưa, vì tôi cũng có quen
biết Văn Thùy, có biết chút ít về ông: Ông là người tài hoa (chụp ảnh siêu, vẽ
họa giỏi), thơ hay và chí khí tang bồng hồ thỉ nhưng phần gia cảnh thì hình như
hơi thiệt thòi, công danh cũng chẳng thuận... Nên tôi đánh giá bài thơ Văn
Thùy “Dị Nhân” này là bài khá, vì tác giả không kể lể kẻ vẽ mà đã khảo dựng
được chân dung một con người thơ thật thơ, cho thơ tử vì đạo...
Nếu cho phép tôi được góp ý thì
tác giả bài thơ vì tính cẩn thận và thực thà quá nên dễ gây cho đọc giả cảm
tưởng tác giả be chắn tỉ mẩn, bày biện chữ nghĩa. Trong chữ phải chứa đủ tình -
cảnh - sự cho suy tưởng hình tượng thơ sống động. Thơ càng vô lý càng tuyệt,
càng chủ quan càng hay. Thơ phải là phi lý, là ảo, là mở mang khơi gợi. Những
câu thực thà máy móc đã làm giảm chất say của thơ. Ví dụ như câu thứ 3: “Say thơ như điếu đổ” thì chữ “say thơ” chưa đắt vì chính 2 câu “Cuống quýt với thơ/ Lử đử cùng thơ” đã
thấy cái say rồi còn nhắc tới “say thơ”
làm gì? Giá như tôi, tôi sẽ sửa là “Biêng
biêng điếu đổ”. Hoặc câu “Dăm ba bài
thơ dán tem thơ bụi” thì cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều không sát với Văn
Thùy. Thực thì người đời - làng thơ đã công nhận loạt bài, phong cách thơ Văn
Thùy là “Thơ bụi” rồi nên chăng sửa
là “Loạt bài thơ bụi”. Hay câu 15: “Giả ngố” thật quá đã tố sự nghiệp, tố
chân dung “dị nhân”, làm giảm hình tượng đẹp của 2 câu kết mà chính tác giả
Đặng Xuân Xuyến đã kỳ công tạo dựng: “Vác
thơ/ Tưng tửng”. Đành rằng Văn Thùy biết và cảm rất rõ
những mất mát của đời mình và ông phải “giả ngố” để mua vui, để tự xoa dịu nỗi
đau của đời nhưng đấy là đời, là cuộc sống thực của Văn Thùy nhưng khi vào thơ
sao Đặng Xuân Xuyến không cho là “Ngố ngố”
hoặc “Quá ngố” để hình ảnh Văn Thùy
“dị nhân” bớt đời đi để thơ hơn?!
*
Hà Nội, 28 tháng 04.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã
Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Email:
nguyendanghanh1234@gmail.com
ĐƯỜNG DÀI
- Yêu mến tặng
Huyền Thương -
- Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ lâu.
- Chúng mình đến chẳng được đâu
Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì
Thôi thì cứ để em đi
Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân
Anh dù vì nghĩa, chả cần
ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn
Trái tim
sợ lắm bước dồn
Thôi.
Em về.
Kẻo lời đồn
khổ anh
Nhà nghèo
duyên phận mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non phận hèn
Dằn lòng rồi cũng phải quen
Thôi.
Em về
kẻo
mờ đèn
phố xa
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài.
*.
Hà Nội, đêm 13 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
BÀI THƠ “ĐƯỜNG DÀI” MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP
ĐƯỜNG DÀI, bài thơ mới nhất của Đặng
Xuân Xuyến không dài nhưng đọc xong có cảm giác vừa đọc một chuyện tình buồn
đẹp sau lúc hoàng hôn. Bài thơ chỉ có 3 lời thoại nhưng đã hiện lên đầy đủ
không gian, thời gian, hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không gian là một nơi
trong ngôi nhà của chàng trai, không quan tâm cụ thể đó là phòng khách, vườn
hoa hay ban công hoặc nơi nào trong ngôi nhà đó. Thời gian là khoảng “Trời đã buông rèm từ lâu” nghĩa là sau
lúc hoàng hôn và trời đã tối rồi. Nhân vật là một chàng trai với 2 lời thoại và
một cô gái duy nhất chỉ có một lời. Không biết cô gái đến nhà chàng trai vào
lúc nào và họ đã chuyện trò với nhau đã bao lâu, cũng không cần biết họ đã nói
với nhau những gì bởi chuyện của trai gái với nhau từ nghìn đời nay đều là
những chuyện đâu đâu, từ chuyện trên trời dưới biển đến chuyện thời tiết gió
mưa, từ chuyện hoa trong vườn nhà đến cây ngoài đường phố, từ chuyện nỗi lòng
mình đến chuyện nỗi lòng ai đó… nhưng tất cả đều huyền diệu muôn màu muôn vẻ
diễm tình. Nhà thơ chắc cũng biết thế nên cũng đã không thừa chữ để viết dông
dài.
Nhưng bây giờ hiển nhiên là hoàng
hôn đã tắt vì “trời đã buông rèm từ lâu”
và cô gái xem chừng tỏ ý muốn ra về khiến chàng trai vội vã van xin nằn nỉ:
Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ
lâu.
Cái hay trong câu nài nỉ này cho ta
thấy, có thể cô gái đã nói, trời tối rồi, em về đây kẻo muộn. Nhưng chàng trai
lại vin vào đó để bảo nàng: trời tối đã lâu rồi, em về làm gì, anh không muốn
em trong “cảnh khuya thân gái dặm trường” nên anh mong “Ở lại đi em”! Và chàng đã được cô gái trả lời:
Chúng mình đến chẳng
được đâu
Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì
Một câu nói dấu bên trong một hơi
thở nhẹ buồn báo hiệu những cảnh ngộ éo le của đôi lứa. Chúng mình không thể
đến được với nhau đâu, anh bảo em ở lại cùng anh trong đêm nay có khác gì khuấy
sóng bể dâu.
Và để chứng minh rằng mình nói đúng,
cô gái lần lần nhắc chàng trai nhớ ra những cảnh ngộ éo le đó.
Trước hết, cô không ngần ngại tự bảo
mình không còn trẻ trung gì nữa:
Mười lăm năm nữa còn gì
nét xuân
Hiểu theo cách nói của dân gian, hẳn
cô đang chừng ba mươi tuổi và trong vòng 15 năm nữa trong cô sẽ không còn một
nét xuân thì nào nữa. Thế thì ở lại đêm nay để rồi sẽ đến với nhau làm gì khi
em đã là gái đang về già.
Và để làm rõ hơn cho lý do từ chối
này, cô tiếp:
Anh dù vì nghĩa, chả cần
ngó ngơ chi lũ dở đần dở
khôn
Trái tim
sợ lắm bước dồn
Thôi.
Em về.
Kẻo lời đồn
khổ anh
Em cảm ơn anh là người tình nghĩa,
chả ngại gì miệng tiếng người đời với biết bao kẻ dở đần dở khôn nhưng em không
muốn anh sẽ phải khổ vì những lời đồn đại thị phi không đẹp ấy.
Là bạn gái của chàng trai, chắc cô
gái đã biết có lần anh đã mượn thơ để nói rằng:
Sợ gì danh phận hư hao
Sợ gì thiên hạ trông vào
nhỏ to
Sợ gì nhỉ? Chẳng phải
lo!
Trai đơn gái lẻ … nhỏ to
bằng thừa!
Và vì đã biết chàng là thế, cô phải
nói ra luôn cái lý do nữa cho thêm sức nặng. Ấy là thân phận của cô: Nhà nghèo/ duyên phận mỏng manh
Và thân phận của chàng: Anh dù chẳng vợ còn con
Nên em biết anh yêu em và em cũng
yêu anh. Nhưng cạp hai cảnh đó với nhau thì sao cho được. Vì vậy, em chỉ xin: Em neo chữ nghĩa chữ tình với son
Vâng! Em xin nợ anh chữ nghĩa chữ
tình và chữ sắt son. Nhưng em chỉ có thể cắm chặt những chữ ấy vào đáy lòng,
không để cho nó trôi đi còn đến với anh thì không thể được, vì: Cố chen em chỉ nước non phận hèn
Chen vào cuộc sống của anh, dù nay
anh không còn người vợ cũ nữa nhưng còn con anh, làm thế khác nào phá vỡ sự bình
yên trong ngôi nhà này, phá vỡ hạnh phúc con anh đang có và làm thế, khác nào
tự em chuốc lấy cái phận hèn vào mình.
Dứt lời, cô gái quyết định:
Dằn lòng rồi cũng phải
quen
Thôi.
Em về
kẻo
mờ đèn
phố xa
Không thấy có nước mắt nhưng câu
thơ có 8 tiếng mà xẻ ra thành 5 nhịp nghe nấc lên những tiếng nghẹn
ngào khi cô gái dằn lòng mình để nói lời cuối và khi cô tự vẽ nên cái cảnh lạc
lõng cô đơn buồn tủi của mình khi sẽ ra về trong cảnh “mờ đèn phố xa”.
Cách viết câu thơ 8 tiếng thành 5
dòng này có thể coi là một cách tân rất thành công của Đặng Xuân Xuyến về cách
xẻ tiếng của câu thơ lục bát ra thành nhiều nhịp để diễn tả tâm trạng trữ tình
của nhân vật trong thơ. Thành công này không chỉ một lần trong lời thoại của cô
gái mà còn trong 2 lần lời thoại của chàng trai.
Nếu như khi nằn nì bạn gái đừng về,
cả hai câu thơ chỉ bị cắt thành thành 4 nhịp:
- Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ
lâu.
Thì trong lời thoại cuối, khi cô gái
nhất quyết dằn lòng ra về, câu lục xẻ ra 3 nhịp và câu bát xẻ ra 4 nhịp
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài
Khiến câu nói như mắc nghẹn trong cổ
họng nhưng phải cố nói cho xong trong nỗi đau đành khoanh tay đón chịu duyên
phận và nghĩ tới cảnh người con gái mình yêu sẽ lầm lụi ra về mà không thể làm
gì hơn một việc là chỉ đưa một chiếc khăn để nàng quấn cho đỡ lạnh trên ngõ xa
đường dài trong khi chính chàng đang thấy lòng mình tràn ngập hơi lạnh giá ở
trong căn phòng sắp vắng bóng nàng, đúng như cảnh trong thơ Thế Lữ từ thế kỷ
trước:
Ai lau nước mắt cô mình?
Dưới đây duy có một mình
ta thôi.
Cầm khăn lòng những bồi
hồi,
Lệ ta cũng chửa ai người
lau cho.
Có thể nói, ĐƯỜNG DÀI là một bài lục
bát hay nhất trong các bài lục bát của Đặng Xuân Xuyến mà tôi đã đọc. Tiếng thơ
dịu êm như từng hơi gió nhẹ thổi nỗi buồn của đôi trai gái hòa tan vào trái tim
người đọc.
Trong bài thơ, ta thấy cô gái rất
nặng lòng với chàng trai, hẳn trong lòng cô cũng âm vang nỗi tiếc khi phài về:
Còn đêm nay nữa, anh đi,
Lượng vàng không tiếc,
tiếc khi ngồi kề
(Ca dao)
Lượng vàng không tiếc nhưng tiếc
những khi ngồi kề bên anh nên em sẵn sàng cam chịu sẽ neo tình yêu của anh vào
tận đáy lòng nhưng không thể sống lứa đôi cùng anh vì lo sợ đường dài sẽ còn có
biết bao ngăn trở.
Chàng trai cũng rất yêu cô gái và
hẳn chàng rất biết:
Còn đêm nay nữa, mai về
Lạng vàng không tiếc,
tiếc kề môi son
(Ca dao)
Lạng vàng không tiếc nhưng tiếc
những giây phút được kề môi son nên anh tôn trong những suy nghĩ của em mà chỉ
dám ngỏ lời muốn níu kéo:
Đừng mà.
Ở lại đi em
Nhưng rồi anh vẫn ngậm ngùi để em
được tự giải thoát:
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Dù anh đau xót quặn lòng biết rằng
em sẽ lạnh lùng buồn tủi trên ngõ xa đường dài đêm nay.
Ôi! ĐƯỜNG DÀI! Đó đâu chỉ là lối đi
về của em tối nay mà đó chính là đường đời còn thăm thẳm nhiều hệ lụy trắng đen
mà anh và em, chúng ta rất dễ dàng bị đánh gục trong khoảnh khắc khi chúng ta
cảm thấy bất lực không vượt qua được những trở ngại trên con đường dài
đó.
Tôi, người yêu bài thơ này không có
lạng vàng nào để tiếc nhưng rất tiếc cho cô gái và rất tiếc cho cả chàng trai.
Với cô gái, ta hãy bình tâm xem lại
hai lý do chính cô gái đưa ra để em về kẻo phố xa đèn mờ.
Lý do thứ nhất: Mười lăm năm nữa còn gì nét
xuân
Tiếc cho cô sao không nhớ tới cô gái
“Phiếu hữu mai” (Mai rụng) trong Kinh thi, một cô gái muộn chồng, nhưng trong
trái tim luôn khát khao mong sớm đạt được nguyện ước “có chàng, có thiếp, như
đũa có đôi”:
Mai em đã bắt đầu rơi
Mười phần hương sắc chỉ
vơi ba phần
Ai người quân tử cầu
thân
Trầu cau ngày tốt Tấn
Tần kề vai
Một tình cảm thật táo bạo tựa như
“cọc đi tìm trâu” nhưng thật đáng quý biết bao cô gái “Mai rụng” đó. Còn cô gái
trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bây giờ đang ngồi kề bên chàng trai rất yêu mình,
năn nỉ cô ở lại cùng chàng nốt đêm nay nhưng sao cô cứ một mực đứng lên vì sợ
đường dài
Lý do thứ hai:
Nhà nghèo
duyên phận mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ
tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non
phận hèn
Ôi sao cô lại yếu lòng đến thế? Tiếc
cho cô không nhớ ra cô gái trong “Bần nữ thán”. Cô ấy cũng rất nghèo và vì
nghèo nên chẳng được ai ngó ngàng tới, mặc dầu cô ấy thông minh, giỏi và đẹp:
Vì một nỗi thua tiền,
thua bạc,
Hóa cho nên thua sắc,
thua tài
Nhưng sau bao lời tâm sự buồn than,
cô gái nghèo ấy đã nhận ra ngay rằng mình chỉ: Giận duyên nói bấy nhiêu lời.
Rồi vững lòng tin vào phẩm giá của mình, của một cô gái nhà
nghèo trước cảnh đời:
Ngọc lành còn đợi giá
cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao
đợi thì
Còn cô, cô gái trong thơ Đặng Xuân
Xuyến, ngọc lành đâu còn phải đợi giá cao? Chàng trai ngồi kề bên cô đang năn
nỉ níu kéo cô ở lại bên chàng, sao cô vẫn mặc cảm về “Nhà nghèo duyên phận mỏng manh” của mình mà dằn lòng đứng lên như
thế?
Với chàng trai, chàng yêu nàng đến
thế mà sao lại cố nói cho xong những lời nghẹn đắng trong lòng:
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài
ĐƯỜNG DÀI! Sao lại sợ đường dài đến
thế mà không nhớ tới câu: Đường dài, ngựa
chạy biệt tăm,/ Người thương có nghĩa, trăm năm cũng về
Để mà níu bằng được đôi chân cô gái
ở lại nốt đêm nay cùng nhau thỏa nguyện: Tơ
tằm đã vấn thì vương,/ Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.
Chính vì thế, bài thơ ĐƯỜNG DÀI của
Đặng Xuân Xuyến có thể coi như một chuyện tình nhỏ bé và đơn giản nhưng chan
chứa nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất đẹp xuất phát từ hai trái tim sâu thẳm yêu
nhau nhưng chưa đến được với nhau thành đôi thành lứa vì chưa bước qua được
những rào cản. Một chuyện tình buồn đẹp như câu thơ của nhà thơ Hồ ZDếnh: Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở (Ngập
ngừng).
Câu thơ cụ ZDếnh hay quá khiến tôi
hy vọng rằng, những lời của chàng trai và cô gái trong bài thơ ĐƯỜNG DÀI của
Đặng Xuân Xuyến chỉ là mấy câu buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Rồi đêm nay sẽ qua,
ngày mai đẹp ánh ban mai sẽ đến, họ sẽ lại ngồi kề bên nhau để cho chuyện tình
buồn đẹp của hai người sẽ mất đi chữ buồn mà chỉ còn lại chữ đẹp.
*.
Sài Gòn, 15 Tháng 05.2017
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“ĐƯỜNG DÀI” - CÂU CHUYỆN TÌNH ĐƯỢC KỂ RẤT THẬT
Lâu rồi mới được đọc bài thơ thật
đến vậy. Cách gieo vần thoáng khoát, lối ngắt câu hợp lý với tâm trạng
phiêu phiêu, bảng lảng, trăn trở, níu kéo, giằng xé đã chạm vào nỗi riêng tư
của từng người đọc.
Vừa xem vừa lo hết và lại mong xem
kết cục câu chuyện thế nào.
Ta cũng hổn hển, gấp gáp, luống
cuống theo tác giả từ mạch thơ. Hình như tác giả viết một hơi, sợ không ghi kịp
ý đang dồn dập tuôn trào trong tâm thức.
Đừng mà ở lại đi em
Ngoài kia trời đã buông
rèm từ lâu.
Bắt đầu từ lời cáo từ giã biệt. Tác
giả cuống quýt lo cho cái buổi vui ngắn chẳng đầy gang trôi mất! Chàng vội năn
nỉ, níu kéo chỉ sợ Em đi mất nên nêu một lý do chẳng thuyết phục tý
nào.
Ngược lại, trong tình yêu thì người
nữ luôn tỉnh táo, thực tế hơn:
Chúng mình đến chẳng
được đâu
Anh còn khuấy sóng bể
dâu làm gì
Thôi thì cứ để em đi
Mười lăm năm nữa còn gì nét
xuân
Cô gái cũng nói vậy thôi để giải
phóng tình thế dùng dằng khó dứt nhưng cũng đầy ắp tiếc nuối và muốn ở bên nhau
mãi mãi.
Con người vốn hay mâu thuẫn, tự tạo
phức tạp cho mình, cho hoàn cảnh để rồi đi cũng dở, ở không xong.
Với cách gieo vần khoáng thoát, cách
nhả câu hợp lý cùng tâm trạng rất tâm trạng làm cho người đọc bị cuốn theo lúc
nào không biết.
Càng lúc lời cô gái càng tha thiết,
phân tích càng có tình có lý:
Anh dù vì nghĩa chả cần
Ngó ngơ chi lũ dở đần dở
khôn
Trái tim sợ lắm bước dồn
Thôi em về, kẻo lời đồn
khổ anh.
Khen anh đấy, vì em mà chẳng thèm để
ý đến cái lũ người chả giống ai cả. Chính em cũng giống anh, vẫn thấy khó quyết
định đi hay ở lại. Do đó đến lượt em nêu ra lý do cũng kém thuyết phục: sợ lời
đồn! Ai đồn? Sao lại khổ anh khi anh đang vui những phút như bất tận thế này.
Và EM ở đây là ai nhỉ? Càng cố tìm
hiểu càng thấy bảng lảng, liêu trai! Mình cứ thấy EM phảng phất, bồng bềnh, mờ
nhân ảnh. Dù vậy, nhưng khối tình lại rất thật, thật như dao cau cật nứa, sắc
lẻm, ngọt ngào làm người đọc thấy như tứa máu......
Cuộc gặp gỡ nghe ra đượm sắc liêu
trai, mộng mị nhưng rất nặng tình người. Người đọc bất giác thèm được như vậy.
Thương lắm, yêu lắm, gần lắm mà cũng xa lắm. Thì ra dặm trường là vậy! Từ cõi
thực đến cõi hư vô có một khoảng cách cảnh giới!
Đọc đến đây bỗng thấy thương tác
giả, thương cô gái và... thương mình.
Thế giới ta đang sống là thế giới
lẫn lộn đồng cư của hư thực, yêu ghét, tốt xấu, hạnh phúc và bất hạnh. Thôi thì
hãy gạn đục khơi trong, hãy tử tế, nhìn ra quy luật để mà hoàn thiện.
Cô gái còn nói nữa, đã chào em về mà
cô mãi vẫn chưa dứt nổi:
Nhà nghèo duyên phận
mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ
tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non
phận hèn
Dằn lòng rồi cũng phải
quen
Thôi em về kẻo mờ đèn
phố xa ...
Cảm xúc vỡ oà.
Rõ ràng âm dương cách biệt nhưng
tình người chan chứa, thật đáng trân trọng. Thà gần hình bóng còn hơn vạn lần
xa mặt cách lòng.
Bất giác không còn khoảng cách âm
dương nữa. Một cách sống, một nghĩa tình đã neo nhau lại bởi nghĩa, tình son
sắt.
Ờ thì em trở lại
nhà
Khăn đây em quấn ngõ xa
đường dài .....
Đến đây tác giả mới nói. Câu nói như
nghẹn ngang cổ họng, lo lắng cho khoảng cách em đi ..
Bài thơ khép lại rồi mà tôi vẫn thổn
thức, buồn vui lẫn lộn nhưng rõ ràng thấy mến tác giả vì sự thật lòng qua tiểu
phẩm hay và nặng.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
LỠ
Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng
Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông
Thầm thĩ với người từng vun mộng
Trăng kia bến cũ có thay dòng?
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống
Môi kề môi ấy có lạ không?
Và đã khi nào mỏi mòn trông
Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?
Tôi biết, nhưng thôi, chỉ rầu lòng
Ái tình cố níu cũng bằng không
Lòng người còn thẳm hơn sông rộng
Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.
*.
Hà Nội,
chiều mưa 19.08.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
May thay tác giả bài thơ “Lỡ”
được sinh ra ở thời đại những làng quê Việt Nam còn nhiều mơ mộng, còn có những
bến đò gợi niềm cách trở cho kẻ ở người đi. Phương tiện để nối lại đôi bờ chỉ
là những con đò tay người chèo lái… Cuộc sống chậm đến nỗi “Chỉ lỡ nhịp chèo”
mà nhiều khi tình duyên lỡ dở, biệt ly, để bây giờ làng quê, thành thị nối liền
nhau, qua sông đã có những cây cầu vững chãi vươn thẳng nhịp nối đôi bờ cho
những dòng người, dòng xe lăn bánh bon bon, chớp mắt đã được cầm tay, đã được
kề tựa bên nhau không còn phải phấp phỏng ngóng chờ mà tác giả vẫn có được
những câu thơ trở về trong mộng:
Tôi đắm hồn tôi nơi bến
vắng
Thấy lại cả vầng trăng “say lướt
khướt rớt đáy sông” vì hồn người lúc ấy đắm say “thầm thì với người từng vun
mộng”. Bây giờ lấy vợ, cưới chồng tuy thủ tục rườm rà nhưng có lẽ người ta đã
mơ ước khác xưa, ước muốn khác xưa. Có đôi lứa nào đến với nhau: “Thầm thĩ với
người từng vun mộng”. Cái thực bây giờ đã thay cái mộng. Còn đôi lứa nào giờ
yêu nhau như câu thơ Xuân Diệu từng gợi lên vẻ đẹp tình yêu sống mãi muôn đời:
“Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Yêu mà không nói được vì sao tôi yêu em. Vì
sao em yêu tôi, thời nay chắc không còn nữa. Khi viết câu thơ “Trăng kia bến cũ
có thay dòng” hẳn tác giả là người có tình yêu bền chặt. Đời thật tất cả đã đổi
thay. Sông, người ta đắp đập, chặt khúc làm thủy điện. Bây giờ còn ai ngẩn ngơ
“Cầm tay đi dạo dưới trăng vàng”. Chưa kể thứ tình yêu thác loạn nơi đèn màu,
nhạc Rốc nơi phố thị, vầng trăng quê đã bị bỏ rơi từ đã lâu rồi như câu thơ một
nhà thơ viết thời đương đại:
Trăng đã mất từ khi Hàn
đi mất
Trăng còn đây chỉ là bản
photo
Hàn là thi sĩ Hàn Mặc Tử, thi sĩ
sống cùng trăng, sống với trăng bây giờ không còn. Vầng trăng ta thấy đây chỉ
là “vầng trăng photo” giống hệt vầng trăng muôn xưa, nhưng không phải, bởi còn
đâu thứ tình yêu thật sự trong lành để nuôi sống mơ mộng cho trăng…
Nhưng nghĩ lại, giữa đời sống bẩy tỷ
người trên trái đất, chỉ có một vành trăng mơ mộng mà thôi, ai còn có nó, giữa
bao bậm trợn, ham hố, thèm muốn ở đời, tác giả là một con người hạnh phúc, vẫn
sống với vầng trăng đẹp để mơ chung thủy với người không chung thủy với mình.
Hơn hết để còn những câu thơ như “kẻ tâm thần không chịu tỉnh” như thế này:
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ
xuống
Môi kề môi ấy có lạ
không?
Bài thơ “Lỡ” sẽ đem đến cho ai chịu
thiệt thòi lỡ dở, thứ hạnh phúc suốt đời vẫn có một tình yêu tươi đẹp, sáng
trong.
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
CẢM NHẬN BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tác giả bài thơ “Lỡ”
quê ở Hưng Yên, bên kia bờ sông Hồng đối diện với dải đất ngoại thành Hà Nội
bên này. Ngày xưa khi chưa có những cây cầu hiện đại bắc qua, làng mạc dọc theo
bờ sông suốt miền châu thổ Bắc bộ, đâu cũng có bến đò ngang… Bến nước, con đò
là nơi nối nhịp thông thương qua lại giữa hai bờ Nam, Bắc. Bao nhiêu đôi lứa đã
gặp gỡ qua ánh mắt nụ cười trên bến, dưới thuyền mà nên duyên chồng vợ, gắn bó
keo sơn, đến đầu bạc răng long. Tác giả bài thơ có lẽ là một người đã được
hưởng thứ hạnh phúc dân dã trong lành một thuở để có những câu thơ hoài niệm về
những kỷ niệm mà cuộc sống tất cả đã đổi thay, không còn gặp ở tình yêu tuổi
trẻ bây giờ:
Tôi đắm hồn tôi nơi bến
vắng
Lướt khướt trăng vàng
rớt đáy sông
Thầm thĩ với người từng
vun mộng
Trăng kia bến cũ có thay
dòng?
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ
xuống
Môi kề môi ấy có lạ
không?
Giờ không còn bến với đò, nhịp sống
hối hả trên những cây cầu lồng lộng vắt ngang trời xanh dẫn về những làng quê
cũng nhà tầng, cũng tường cao cửa kín, chưa kể nhiều nơi người ta đã lắp đặt
những con mắt điện tử (camera) ma quái rình mò, giăng mắc ngày đêm, ta được đọc
những câu thơ như giở lại những kỷ vật cũ càng: “Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng/
Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông” để được tiếc nuối những gì say đắm đã đi
qua, chẳng thú vị sao! Có lẽ tác giả bài thơ là lứa tuổi người cuối cùng nhìn
thấy “Vầng trăng say khướt rơi xuống đáy sông”. Bởi trong các nhà thơ hiện đại
đã có người viết “Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất/ Trăng còn đây chỉ là bản phô
tô”. Vẻ đẹp của tạo hóa lung linh huyền diệu lấp lánh trong thi ca muôn thuở,
đã nhuộm thắm hồn người làm cho tình yêu trở nên bất tử mơ màng, bỗng bị thứ
ánh sáng đèn màu với âm thanh thác loạn của những điệu nhạc cuồng si che phủ,
mờ nhạt như một bản phô tô, một vầng trăng in giấy không hồn, bởi chính lòng
người vô cảm trước những nhu cầu vật chất, của cải, tiện nghi chẳng biết sẽ còn
đưa cuộc sống con người đi đến nơi nao? Người ta đã chế tạo được những “người
Rô bốt” nhằm thay thế con người bằng xương thịt trong lao động tay chân, đã sản
xuất được cả những máy tính có khả năng viết những bài thơ theo lập trình có
sẵn… Liệu ngày nào đấy con người sẽ tìm ra thứ “tình yêu Rô bốt” mới chăng? Nói
vậy để thấy vui vì hôm nay ta còn được đọc những câu thơ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn vì
tình của Đặng Xuân Xuyến viết cuối năm 2016:
Và đã khi nào mỏi mòn
trông
Héo hắt than hoa lạc
cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ
trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi phiêu
bồng...?
Đôi lứa yêu nhau bây giờ chắc chẳng
bao giờ dùng lại những câu thơ “Héo hắt than hoa lạc cuối dòng”. “Than hoa
lạc…” là than thế nào? “Cõi phiêu bồng” là ở đâu? Khi những chiếc máy bay siêu
tốc một giờ đã rẽ mây đi hàng nghìn cây số! Và những giấc mơ đã được dùng làm
nghiệm chứng cho con số tính đề thua được, đỏ đen…Có được bài thơ gợi lại một
tình yêu thủy chung, son sắt “chỉ lỡ một nhịp chèo mà thành xa cách…”, mà tháng
năm cứ còn mãi bên lòng ngọn lửa không tàn phai đã là an ủi cho ai người vẫn
còn khao khát thủy chung!
*.
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Nhà thơ HÀ NGUYÊN
Địa chỉ: 126 Nam Cao, Hai Bà
Trưng, Hà Nội
Email: kstoan12@gmail.com
CHUNG
- Tặng Quỳnh Hương -
Em có cần anh không?
Nếu cần anh hãy cùng anh chung sống
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ cười...
Đừng ngại em ời...
Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng
Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi trăng...
Em sẽ là buồm căng
Anh sẽ là gió lộng
Thuyền trăng mình thơ mộng
Dập dìu giữa biển xanh
Em. Nào, về với anh!
*.
Hà Nội, trưa 25 tháng 04. 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đã lâu… tôi mới nghe
được một thông điệp tình yêu - lời tỏ tình mộc mạc,
giản đơn mà chân thành, vừa cổ điển vừa hiện đại. Lời tỏ tình từ tâm can, không
ấp úng rụt rè vụng dại của tuổi trẻ mới vào đời, mà là lời tỏ tình của người đã
trải qua những cung bậc thăng trầm trong tình ái, đã bước vào ngôi đền tình yêu
thắp nén tâm hương của lòng mình và nghe được thần ái tình mách bảo lẽ hằng
thường vĩnh cửu - bền vững của tình yêu. Tiếng nói
của thần ái tình thường thì thầm trong lòng con người, nhưng không phải ai cũng
nghe rõ. Hình như trời cho trái tim thơ của Đặng Xuân Xuyến nghe được tiếng nói
tâm linh.
Trong kinh dịch quẻ Hàm
là đạo vợ chồng - tiếp nối đến quẻ Hằng là đạo dài
lâu. Sự dài lâu nào cũng có nguyên lý của nó như nhu cầu thiết yếu trong cuộc
sống con người. Như khí trời, không có khí trời thì vạn vật và con người không
thể tồn tại và con người cũng cần tình yêu như khí trời vậy, “Đến sỏi đá cũng
cần có nhau” thì con người sinh ra trong trời đất không có tình yêu và tình vợ
chồng chẳng có lỗi với tạo hóa lắm sao!
“Em có
cần anh không”, một câu hỏi tưởng giản đơn bình thường nhưng đầy nội lực,
không trải qua những thao thức với tình yêu, không hiểu thấu nguồn cội của tình
yêu, đặc biệt là tình yêu vợ chồng là sự hằng thường lâu dài không thể tỏ tình
từ tâm can như vậy. Chữ “cần” vừa
mang sức nặng của câu thơ, vừa là ngọn lửa minh bạch và chân thành thắp sáng
trong ngôi đền tình yêu của mọi lứa đôi trong cõi đời này. Thiếu sự “cần” ấy
mọi cuộc tình sẽ thành tẻ nhạt. Ngược lý của cần là không cần, ôi không cần
nhau thì đâu còn là tình yêu nữa.
“Em có
cần anh không”. Cần là một nhu cầu như nhu cầu hít thở để bảo toàn sự sống
con người, và con người không có tình yêu như trái đất thiếu mặt trời là điều
tất nhiên. Nhưng câu hỏi này đối tượng được hỏi phải là người nào? Mới gặp
nhau, mới biết nhau mà hỏi như vậy thật là vô duyên. Đặng Xuân Xuyến tặng bài
thơ này cho Quỳnh Hương có nghĩa là 2 người đã hiểu nhau, biết nhau lâu rồi.
Quỳnh Hương đã là không khí trong lành trong lồng ngực nồng nàn của nhà thơ hít
thơ, nàng đã là bài thơ mà Đặng Xuân Xuyến là tác giả. Cũng có trường hợp 1
bóng hồng lướt qua đã rung động cho thi nhân làm thơ tặng, nhưng tôi dám chắc
rằng không có nhà thơ nào dám cả gan hỏi “Em
có cần anh không” như Đặng Xuân Xuyến.
Sau câu hỏi “Em có cần anh không” thì câu thứ 2 sinh
ra là lẽ tất nhiên “Nếu cần hãy cùng anh
chung sống”. Lòng thành của nhà thơ cụ thể hơn, tính mục đích rõ ràng minh
bạch hơn, câu thơ như ánh nắng hồi hộp thở trong hoa, ánh mắt của nhà thơ đang
ngước lên thành kính đợi chờ vị thần tình ái của lòng mình. Sự chân thành như
sóng đã dâng lên là hối hả vỗ bờ, và mọi sự chân thực đều ngắn gọn và rõ ràng:
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ
cười
Lời tỏ tình đến đây
tưởng như đã đủ, nhưng với tình yêu đặc biệt là tình yêu chân thành thì nói
biết bao nhiêu cho vừa. Xuân Diệu:
Đã hôn rồi
Hôn lại
Hôn mãi mãi muôn đời
Anh mới thôi dào dạt
Đặng Xuân Xuyến là nhà
thơ hậu sinh cái gen đa tình bay bổng của thơ đã nhiễm với gen đời. Anh vẫn tỏ
tình với ngôn ngữ mộc mạc:
Đừng ngại em ời
Giường nhà anh đủ dài đủ
rộng
Chăn nhà anh đủ ấm đủ
nồng
Câu thơ gọi hồn những
trang cổ tích, cho người đọc trôi ngược về cội nguồn nề nếp cha ông, nhưng cũng
rất hiện đại trong cuộc sống hôm nay. Chữ “đủ”
là linh hồn của câu thơ, đủ có nghĩa là không thừa không thiếu, đủ mang hồn của
triết học phương đông, kín đáo nói với người tình của mình và cho tất cả những
lứa đôi, những cặp vợ chồng và cả chúng ta: mọi sự ở đời này hãy tự cho là đủ -
thì sẽ đủ. Tôi nghe thấy tiếng Lão Tử cười thầm và tay khẽ vuốt râu - Đạo đã
thành thơ.
Cái đẹp của thơ Đặng
Xuân Xuyến là sự mộc mạc vì hồn cốt của anh mộc mạc. Nhưng cái mộc mạc của
chàng trai quê Hưng Yên đã già nửa đời ra đi dan díu với kinh thành, nên vẻ đẹp
mộc mạc mang một vẻ đẹp khác. Sau những điều cụ thể của sự “cần” có anh không, của
gạo chung nồi, chăn chung, gối chung của căn nhà đủ dài đủ rộng, sự mộc mạc của
thơ bay lên với tất cả nỗi lòng:
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi
trăng.
Khêu ngọn lửa hồng ý tưởng của câu
thơ mang nỗi lo xa, cẩn thận gìn giữ tình yêu, ngọn lửa tình yêu khêu lên, thắp
sáng không chỉ một đêm nay, đêm mai mà sáng cả một đời. Câu quan họ không chỉ
hát trong đêm nay mà “Ta nối câu quan họ”
nối dài mãi ngân vang mãi trong cả đời. Chữ “khêu” và chữ “nối” đọc lướt
qua sẽ không thấy nỗi lòng của nhà thơ.
Từ bệ phóng của đời
sống, của lòng chân thành hồn thơ bay lên, tình yêu ảo diệu lung linh “Ta
bện mây với gió/ Kết thành thuyền chơi trăng”. Bàn tay của ái tình thật
kỳ diệu “Bện mây với gió”, chủ thể và
khách thể giao hòa - anh với em là một. Anh không nhớ anh là mây hay là gió, em
không nhớ em là gió hay là mây. Như Liệt Tử nói: “Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta”, gió và mây quện vào nhau kết thành
con thuyền chơi trăng, và con thuyền chơi trăng ấy vừa có, vừa không mang sắc
màu huyền bi đạo phật. Bơi trong cuộc sống vĩnh hằng. Đọc đến đây mới thấm thía
chữ “cần”. Mây cần có gió, gió cần có
mây để hóa con thuyền chơi trăng và vui sống trong cõi đời này.
Nếu là tôi, tôi sẽ dừng
bài thơ ở đây. Nhưng nhà thơ đang yêu, đang say nên dù đã qua sự tột đỉnh thăng
hoa, nhưng tình yêu hoàn nguyên cho anh sức khỏe, vẫn yêu tiếp:
Em sẽ là buồm căng
Anh sẽ là gió lộng
Thuyền trăng mình thơ
mộng
Dập dìu giữa biển xanh
Em, nào, về với anh.
Buồm căng và gió lộng là
ý thơ không có gì mới, không say lòng người bằng “Bện mây với gió”, “Thuyền
trăng mình thơ mộng/ Dập dìu giữa biển xanh” tưởng là hình ảnh đẹp của thơ
nhưng đã thiếu lửa, không cháy như sự đam mê quấn bện vào nhau như mây gió.
Thế mới biết làm thơ cực
khó, thêm một chữ thì thừa, bớt một câu thì thiếu. Ngoài sự xúc động thực, vốn
đời cần có tư tưởng và câu chữ bầu lên nhà thơ.
Ở bài thơ này một số chữ
tôi đã phân tích ở trên đã bầu lên nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Câu kết: “Em, nào, về với anh”. Một câu nói thừa
nhưng lòng tôi hình dung hình ảnh bàn tay nắm bàn tay, đôi tình nhân cùng nhau
tung tăng bước vào ngôi nhà hạnh phúc. Tôi thầm cầu trời sự hình dung mong đợi
của tôi và của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thành sự thật.
*.
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai
Bà Trưng, Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
ĐÔI LỜI GÓP THÊM VỀ BÀI THƠ “CHUNG”
Nhân đọc bài ĐẾN VỚI BÀI
THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Khôi tôi
có đôi lời “góp thêm”.
Bài thơ có 2 câu HAY
nhất, đó là "tứ" thơ - là rường cột của bài thơ:
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi
trăng
Một "tứ" thơ
lạ, một sáng tạo độc đáo. Nó thơ mộng nhưng cũng thầm bảo: đằng sau cái thơ
mộng là biển khổ cuộc đời đấy, có dám chung lưng đấu cật "Vượt biển"
thì hãy về với anh?
Viết đến đây Nguyễn Khôi
lại nhớ đến Trường ca "Khảm Hải" - Vượt Biển của Dân
tộc Tày, Việt Bắc (thói quên nghề nghiệp của 1 đời ở và làm công tác Dân Tộc
mà). Thật là sòng phẳng, nói trước cái khó khăn / có chấp nhận (chịu nổi) thì mới "Em, nào, về với anh"..., kẻo sau này lại:
Chồng gì anh
Vợ gì tôi
Chẳng qua là cái
nợ đời của nhau...
(Ca dao)
rồi lại chia tay như
cuộc hôn nhân trước...
Chao ôi, thơ Tình là
tiếng lòng, tiếng con tim thổn thức của tuổi trẻ, nhưng ở cái tuổi dở ông / dở
thanh niên như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, thì đó là sự "hồi xuân" mà
lửa lòng bưng bừng "khát" (thèm) một cuộc hôn nhân (già) như mộng? để
có một bạn đời cùng chung một con thuyền tình để "vượt biển" qua nốt
quãng đời còn lại trên thế gian này.
Nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm
về cơ bản "bình" trong bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN là đủ rồi, rất Hàn lâm...
Tuy nhiên, cái có vẻ
"mộc mạc", “giản đơn” của Đặng Xuân Xuyến ở mấy câu thơ khổ đầu như
dẫn dắt cô gái quê ngây thơ kia đi đến "ta bện..." thì không
còn mộc mạc nữa mà là rất lãng mạn, kiểu lãng mạn của nhà thơ Xuân Diệu:
"Là thi sĩ nghĩa là
ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn
cùng mây
Để linh hồn ràng buộc
với muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm
tình yêu mến..."
(Cảm Xúc)
thì ở đây phải là một cô
gái có tâm hồn đồng điệu mới kham nổi cái "tầm" yêu (khát vọng yêu
của Đặng Xuân Xuyến) để thành một cặp đôi hoàn hảo khi kết thành thuyền Thơ...
HAY, HAY, HAY.
LẠ, LẠ, LẠ...
Đó là một cống hiến nhỏ
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cho ngàn lẻ cái Thơ Tình xưa nay hiếm của “Chung”
là thế chăng?!
Nguyễn Khôi gõ nhanh, có điêu gì bất cập xin được
miễn thứ.
*.
Phố Hàn 3 giờ sáng 11-10-2016
NGUYỄN KHÔI
Địa chỉ: P12A05 nhà 17T,
Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội.
Email: khoidinhbang@gmail.com
HƠI THỞ NÚI RỪNG TRONG BÀI THƠ “CHUNG”
Cái chất giọng, hơi thở
và cách tỏ tình của chàng trai trong bài thơ làm người đọc hình dung ra một
vùng đồi núi trập trùng, hương rừng ngai ngái và chàng trai được ướp mình trong
không gian đó nên lời nói cũng mộc mạc, rõ ràng như thuở bản thiện tính:
Em có cần anh
không
Nếu cần hãy cùng anh
chung sống ...
Thế thôi! Đơn giản nhưng
lại là lời cầu hôn đẹp nhất mà cũng “rừng rú” nhất và chắc chắn người phụ nữ
kia không hề từ chối.
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ
cười.
Đến đây càng chắc chắn
hơn: lời tỏ tình của một chàng trai thẳng thắn, bộc trực, chả màu mè nhưng tình
lại vô cùng sâu đậm.
Đừng ngại em ời...
Giường nhà anh đủ dài,
đủ rộng
Chăn nhà anh đủ ấm, đủ
nồng
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi trăng...
Cái thật thà đậm chất
sơn cước nhưng cũng rất lãng mạn kiểu núi rừng của chàng trai (trong thơ) như
thế, làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Em Tắm của nhà thơ Cầm
Vĩnh Ui (Bạc Văn Ùi):
“Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương.
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem”
Cả bài thơ CHUNG là hơi
thở của núi rừng, là cách thổ lộ tình cảm của chàng trai miền sơn cước: thẳng
thắn, bộc trực mà sâu đậm. Đọc thơ, ta hình dung như thấy chàng trai đang mộc
mạc tỏ tình với cô gái giữa đại ngàn lộng gió. Khó tìm thấy chất trai thành thị
hay trai miền đồng bằng trong bài thơ này.
Thế đấy, tôi cứ bám mãi
vào tâm tư đấy mà quả quyết người con trai Hà Thành Đặng Xuân Xuyến đã hoá mình
thành chàng trai rừng núi, yêu cô miền núi, mới bị đồng hóa sâu đến thế .
Toàn bài không có ý
tưởng đặc biệt, cũng chẳng có từ hoa mỹ, lại càng không dùng thủ pháp nhưng khi
đọc ta cũng thấy mình hổn hển theo lối nói gấp gáp, trần trụi, sơn cước để yêu
hơn một con người.
Thật lạ là sao lại như
vậy?
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
VÀI LỜI GÓP VUI KHI ĐỌC BÀI THƠ “CHUNG”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Anh chàng Đặng Xuân Xuyến nầy chắc
là nhà thơ nên tán gái có nghệ thuật hơn anh chàng nông dân "Tát nước đầu
đình" của ca dao Việt Nam.
Anh chàng nông dân tuy vào đề:
Hôm qua tát nước đầu
đình
Bỏ quên chiếc áo trên
cành hoa sen
thì thật hay nhưng rồi đoạn sau chỉ
hứa hẹn những sính lễ là vật chất bình thường như: "Một thúng xôi vò, một cơn lợn béo, một vò rượu tăm, đôi chiếu em nằm,
đôi chăn em đắp ..." là những thứ không bày tỏ được tình yêu thắm
thiết.
Anh chàng Đặng Xuân Xuyến thì khác.
Anh vào đề bằng một câu chắt cú:
Em có cần anh không?
để cô gái trợn mắt ngạc nhiên rồi
Đặng Xuân Xuyến từ từ dìu cô vào một giấc mơ có đầy đủ vật chất và tinh thần.
Đầu tiên Đặng Xuân Xuyến chỉ mời
"góp gạo chung nồi" thật là
chơn chất như một lời đùa vui. Sau đó từng bước, từng bước Đặng Xuân Xuyến trổ
tài siêu việt của nghệ thuật tỏ tình để đôi tai cô càng nghe càng đắm say trong
viễn ảnh tương lai vừa đầy đủ vật chất vừa thơ mộng tâm hồn.
Lời tỏ tình của Đặng Xuân Xuyến từ
chỗ bông lơn lúc ban đầu trở nên trang nghiêm dần dần, lũy tiến những lời kết
ước nghiêm chỉnh, bày tỏ được tường tận cái chiều sâu của tâm hồn nghệ sĩ trong
Đặng Xuân Xuyến để cô gái hiểu hoàn toàn về anh.
Những đoạn Đặng Xuân Xuyến đề cập
đến quan họ, đến trăng, đến gió, đến thuyền tình là đoạn chính của lời tỏ tình,
vì lúc đó Đặng Xuân Xuyến bộc lộ hết tất cả tính lảng mạn trong anh, những mơ
ước mà anh ấp ủ trong tâm hồn cho một cuộc tình lớn trong đời anh. Lúc này cô
gái chắc sẽ rất cảm động vì thấy được ở Đặng Xuân Xuyến một con người vẹn toàn khi
lo từng chi tiết trong cuộc sống vật chất mà cũng không quên tô bồi tình yêu đó
bằng những nguồn vui cao thượng.
Xin gởi vài lời góp ý cho vui vậy
thôi./.
*.
Đà Nẵng, 22 tháng 10 năm 2016
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
RU CON
Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày mỗi già
Tóc thêm dày sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.
Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
Ầu ơ... thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ.
Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ
Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?
Ầu ơ... Ơi cái ngủ
Ngủ ngoan nào con yêu...
*.
Hà Nội, đêm 20 tháng 08 năm
2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thường thì người ta hay dùng
lục bát để ầu ơ ru con, có mấy ai dám dùng thể thơ ngũ ngôn để ru con. Ấy thế
mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã mang thể thơ ngũ ngôn âm dương cân đối, nhịp điệu
hùng khí để ru con. Âu cũng là cái may, cái mạnh để nhà thơ diễn đạt cái tình
của mình.
Bài thơ đi thẳng luôn vào vấn
đề, không kể lể dài dòng, không trình bày nguyên nhân, đã dựng được một khung
cảnh chân thật, cảm động:
Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày mỗi già
Tóc thêm dày sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.
Ngay ở khổ thơ đầu, đã khắc họa
hình ảnh người cha với những đường nét đặc biệt: Đó là người cha độc thân, gánh
cả thiên chức làm cha và làm mẹ. Đó là người cha cô đơn, đang cảm nhận sự già
yếu của bản thân theo thời gian (tóc thêm dày sợi bạc) nên càng
trăn trở, lo lắng cho tương lai của đứa con, khiến “Đêm trở mình nhiều hơn”.
Hình ảnh người cha “lặng nhìn con nằm ngủ” trong khung cảnh
tĩnh lặng với trĩu nặng yêu thương ấy, tưởng yên bình mà lại hừng hực cái tâm
biến động:
Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
Ầu ơ... thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ.
Hành động “Giấu nỗi buồn trong thơ” không phải là để trốn tránh hiện thực mà
là giấu đi những nỗi buồn, để con thơ luôn được vui tươi trong sự chở che, bảo
bọc của người cha.
Bài thơ đi tiếp với nhịp trầm
trầm như tự sự:
Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ
Không một lời kể lể, không một
câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn”
đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng
của mình, nhưng trong thơ đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc động: Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ.
Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc
thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc
ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ
“níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động,
gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu
chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu
vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong
mơ”, để tự bù
đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của
người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn
con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng
người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng
trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu
chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.
Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?
Nhà thơ đã dùng thủ pháp so
sánh đối tỉ để hiện lên khuôn mặt non tơ của con thơ bên gương mặt cương nghị
và bóng dáng lồng lộng của người cha dẫu đã qua mùa hạ rực lửa vẫn vững vàng
chở che cho đứa con bé bỏng của mình. Tôi hơi ngạc nhiên với dấu chấm hỏi “?” ở
cuối khổ thơ này: “Chở che con mấy mùa?”.
Phải chăng, vì sợ sức khỏe và tuổi già sẽ không thể che chở cho con đến khi con
trưởng thành nên người cha mới nặng lòng đến thế? Theo tôi, giá cứ chấm than
“!” có lẽ sẽ gợi cảm, tạo hồn thơ hơn.
Ầu ơ... Ơi cái ngủ
Ngủ ngoan nào con yêu...
Bài thơ dừng lại rất đúng lúc,
đã khơi dòng mãn đạt tình cảm cha con, đã bừng sáng lên niềm tin vào tương lai
tốt đẹp. Dù vậy, Ru con vẫn chưa thật sự là bài thơ
hay, mới chỉ đạt ở mức khá được.
Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ
thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ
của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc
động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru con!
*
Hà Nội, ngày 17 tháng 04/2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã
Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Email:
nguyendanghanh1234@gmail.com
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Cái ru của người đàn ông khác
lắm. Không ê a, khề khà, kể lể nên gọn gàng đủ ý.
Đàn ông ru con thì cứ thế mà
ru, chả ai thèm để ý xem có đúng chủ trương, đường lối một cách ngớ ngẩn nữa.
Mình thích cách diễn giải của
tác giả vì nó phóng khoáng, chân thật nhưng cũng rất thơ.
Khổ thật, khi đọc thơ lại phải
xem quan điểm thế nào, viết có nhiều người thích không... để rồi mất mình, mất
thơ, mất cái khoái thong dong khi nhắm thơ.
Đặng Xuân Xuyến đã tránh được
điều đó nên rất thân thiện với người đọc và thơ cũng tự nhiên hay, chả cần thủ
pháp, nguyên tắc, quan điểm gì cả.
...Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò..
Đây là khoảnh khắc thú nhất và
thật nhất của đời người. Ai không có những phút thế này thật thiệt thòi vì lúc
này cảm xúc bề bộn, thiêng liêng và pha trộn nhiều lắm, tình bố con cũng lớn
dần từ đây, người đọc thơ dễ bỏ qua tình tiết này nên thật phí.
Ầu ơ...thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ
Câu thơ này đã làm nên bài thơ
mà mạch của nó tự nhiên như củ khoai hạt lúa.
Thương lắm cái ngủ, thương cả
tiếng ầu ơ trầm buồn chậm rãi để giấu đi tâm trạng, lo lắng, sợ hãi khi nghĩ về
tương lai của con mình.
Tình bố khác với tình mẹ, nó
không ồn ào, phơi bầy vì nó quá sâu chứ không phải cơi đựng trầu... Lo lắm chứ
bởi những thói hư tật xấu của cuộc đời lây lan sang con, di truyền sang con dù
vô tình hay cố ý.
Người ta bảo thơ hay ở chỗ khi
tác giả không định làm thơ thì mới hay được! Có lẽ đúng.
Con níu vào giấc ngủ
Cách biểu cảm thật hay. Trẻ con
lớn lên trong giấc ngủ mà giấc ngủ đó rất cần:
Cần đời cha bóng cả
Chở che con mấy mùa...
Cám ơn Đặng Xuân Xuyến và cám
ơn anh Nguyễn Đăng Hành đã cho mình có cơ hội tiếp xúc và cảm nhận được bài
thơ.
*.
Thành Nam, 16 tháng 11/2019
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
CHIỀU LẠ
- Tặng L.L -
Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya
Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ
Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.
*.
Hà Nội, chiều 02 tháng 10.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
THẢO LUẬN BÀI THƠ “CHIỀU LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bài thơ có tiêu đề “Chiều
lạ” nhưng qua mấy câu thơ ta không thấy buổi chiều có gì
lạ.
Bài thơ chỉ có một câu thơ đề
cập đến chiều: “nắng chiều rơi trên
lá”. Nắng chiều rơi trên lá là một chuyện bình thường trong mọi
buổi chiều. Vậy buổi chiều lạ ở chỗ nào? Nó lạ vì chiều nay có
chiếc “áo lạ”. Chiếc áo lạ làm
cho buổi chiều thay đổi hẳn, hay đúng ra, chiếc áo lạ đã đánh động
tâm hồn của người thơ làm cho dậy lên trong lòng thi sĩ sự băn khoăn
đến độ nếu không nhìn được nó thì “Sợ
đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya”.
“Quẩn
gió/ xáo xác khuya” chỉ là mượn cảnh để diễn tả cái tình xảy
ra trong lòng, hay đúng hơn là diễn tả cái tâm trạng thao thức trong
đêm của người muốn nhìn chiếc áo lạ. Chiếc áo đó dầu đẹp đến đâu
cũng không khiến cho lòng người xao động đến thế. Sở dĩ lòng người
xao động đến thế vì chiếc áo lạ nhưng người không lạ. Người không lạ
vì người nếu không là hình bóng của kẻ mà nhà thơ say đắm thì cũng
là người có sợi dây vô hình gắn bó, có tiền duyên từ một kiếp nào
để đánh thức niềm đam mê, làm sống dậy khối tình đang ngủ từ trăm
năm, từ ngàn năm trước chăng?
Đọc bảy chữ đầu của bài thơ:
“Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya”
thì ai cũng đặt trong đầu mình
một dấu hỏi vì sao phải sợ như thế. Đọc đến các câu thơ kế tiếp cho
ta một cảm giác thiết tha với tà áo vì tà áo trong thơ quan trọng
quá, nó thoáng qua trong đôi mắt, nó mỏng manh nhưng nó đã làm cho “quẩn gió/ xáo xác khuya” là làm
ảnh hưởng không gian, thời gian, thay đổi khí hậu hay đúng ra, nó dằn
vặt một tâm hồn bình an để thấy vạn vật chung quanh đều chuyển đổi.
Hai câu thơ:
Cố vét vớt nắng
chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ
cười nhòe áo lạ
thật là khó hiểu. Tuy thế qua
thơ ta cũng đoán được rằng “áo lạ”
xuất hiện vào một buổi chiều tắt nắng. Trời chưa tối hẳn nhưng ánh
nắng chỉ còn rơi lẻ loi trên lá, để cho tác giả phải “cố vét vớt” cái nắng chiều, tìm
thêm ánh sáng mà nhìn cho rõ thêm tà áo lạ. Cái anh nắng “cố vét vớt” đó nó chênh chao. Vì
sao nó chênh chao? Vì nó rơi trên lá, mà lá rung trong gió nên nó phải
chênh chao. Lạ thay, thứ ánh nắng cố vét vớt đó tác giả lại cho “thể nụ cười” tức là như nụ cười,
mà nụ cười ấy lại làm cho “nhòe
áo lạ”.
Ta biết thứ ánh nắng sót lại
của buổi chiều nó vô cùng dịu mát, nó cũng làm cho cây cỏ được dát
vàng, nghĩa là nó rất đẹp. Vậy thì trong bài thơ này nó đại diện
cho nụ cười của người mặc chiếc áo. Chiếc áo lạ đã đẹp. Vậy mà
nụ cười “như nắng chiều rơi trên lá chênh chao” làm nhòe chiếc áo lạ thì
nụ cười ấy đẹp biết bao. Đọc thơ, người ta tưởng khoe chiếc “áo lạ” là đẹp nhất, nhưng không,
chiếc áo lạ dầu đẹp cũng vô tri mà nụ cười mới mang linh hồn của
người mặc áo. Nụ cười đẹp hơn chiếc áo. Té ra tác giả dùng chiếc
áo lạ để tá khách nụ cười vào đó, tôn vinh nụ cười đến chỗ tuyệt
mỹ khôn lường.
Và lạ lùng thay, ba câu thơ chót
như bức màn nhung kéo xuống, kéo xuống để khán giả nhìn xuyên qua
bức màn nhung thấy cả buổi chiều trở nên êm ái, để người đọc cảm
khái cái im lìm của hoạt cảnh xảy ra:
Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.
Ta hãy nhớ lại bài
thơ Trăng của nhà thơ Xuân Diệu:
“Trong vườn đêm ấy
trăng nhiều quá
Ánh sáng tuôn đầy cả
lối đi
Tôi với người yêu qua
nhè nhẹ
Im lìm, chẳng dám
nói năng chi”.
Vì sao qua nhè nhẹ, vì sao im
lìm? Nhà thơ Xuân Diệu nói vì: “Tôi
sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá / và làm
sai lỡ nhịp trăng đang”
Ở đây nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến cũng thế. “Te tẻ chiều”
là buổi chiều bình an quá, thơ mộng chẳng khác gì trăng trong vườn
nhiều quá, trăng đầy cả lối đi. “Nhớn
nhác/ nhón chân qua” vì muôn giữ sự yên tịnh của một buổi chiều,
vì muốn hình bóng tuyệt vời của tà áo lạ không biến đi, vì muốn
giữ nụ cười thơ mộng như giọt nắng chênh chao trên lá cho của riêng
mình không tan ra bởi biến động nào, nhà thơ đành nhẹ chân trong im
lìm nhón gót theo em.
Bài thơ ngắn diễn tả chỉ một
hành động nhưng cho ta một chiếc áo quá đẹp, một nụ cười quá đẹp,
một khung trời quá đẹp, quá bình yên, quá thơ mộng và một giấc mơ
mang hình ảnh tuyệt vời của một buổi chiều rất quen mà dường như
rất lạ vì cảm nhận được những điều tinh tế trong thơ./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
MỘT CÁI NHÓN CHÂN... THẬT LẠ
Sợ đêm về quẩn gió, xáo xác
khuya!
Cái lo thường tình của người đa cảm,
thi tâm; bởi trong sự cô tịch, vắng vẻ của màn đêm người ta hay hoài niệm, mơ
hồ và lòng trắc ẩn được giấu kín ban ngày thì đêm về dễ òa ra, trào dâng một
cách khó kiểm soát.
Chính bởi lẽ ấy mà tác giả chín hơn,
khôn hơn, rón rén mà: “nhón chân”
qua cái “te tẻ chiều”!
Mặc dù vậy nhưng tâm nào có an, vẫn
bị cái điều mơ hồ, không thể đặt tên kia làm cho tâm trạng: nhớn nhác.
Cố vét vớt nắng chiều
rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười
nhòe áo lạ
Kiểu tâm trạng: “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”!
(Xuân Diệu) Cố gắng vơ vét, nhọc nhằn những điều đáng có nhất để làm gì? Không
biết! Có được rồi thì đặt vào đâu? Không biết nốt. Vì tất cả đều mơ hồ, mặc
định và ước lệ như: “nụ cười nhòe” trên “áo lạ”!
Tác giả tránh đêm nhưng lại vướng
ngày, vướng cái hoàng hôn đầy trắc ẩn, trầm trầm với vài giọt nắng cuối cùng
rơi trên lá... thì tâm trạng cũng “nguy hiểm” không kém mấy ban đêm. Chính vì
vậy mà nhà thơ phải “nhớn nhác” để “nhón chân qua” cái chiều “te tẻ”.
Bài thơ hay ở chỗ dùng từ, đọc lên
người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là
những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với tâm cảnh, hồn người nên cứ thấy hay.
Điều đặc biệt là bài thơ không thể
chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô đọng.
Đặc biệt hơn là cả bài không có đại
từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy mình trong đó và đó chính là thủ pháp
"hỏa mù" chả ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của tác giả...
Ồ! Mà lạ chưa: tâm động qua một cái
nhón chân thi vị.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
CHẤP CHỚI
Có người líu ríu theo chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn kim”
Ơi người nhớn nhác đi tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
*
Làng Đá, 21 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“CHẤP CHỚI” - MỘT BÀI THƠ LẠ VỀ CẤU TỨ
Phải nói thẳng Chấp
Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức
trung bình. Thế nhưng, tôi lại thích bài thơ này bởi lối viết hiện đại và cái
khác lạ về cấu tứ của bài thơ.
Mới làm thơ được vài năm
nhưng thơ của Đặng Xuân Xuyến đã tạo được nét riêng, thường ngắn gọn, súc tích,
tiết tấu nhanh, tứ thơ mới, khẩu khí mạnh, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh và dễ
cảm, nhất là ở thể thơ tự do. Thế nhưng ở bài thơ này những nét đặc trưng đó
hầu như đã biến mất, thay vào đó là sự khác lạ, hư hư ảo ảo, khó hiểu.
Ta thử thưởng thức Chấp
Chới như cách vẫn thường cảm thơ.
Khổ thơ thứ nhất:
Có người líu ríu theo
chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Mở đầu khổ thơ, tác giả
bâng quơ kể: “Có người líu ríu theo chồng”,
sang câu 2, câu 3, rồi đến câu 4, vẫn tiếp dòng tự thán, tự kể, rất bâng quơ...
tuy vậy, tác giả cũng vẽ nên một bức tranh đẹp, với những hình ảnh gợi cảm và
giàu nhạc điệu. Hình ảnh người con gái “líu
ríu”, “buông lơi lời hát”, bỏ lại
“ngày xuân ngăn ngắt” vội sớm lấy
chồng được phác họa với tiết tấu nhanh, thái độ bâng quơ, và sự không rõ ràng
về đại từ nhân xưng khiến người đọc tuy “cảm” được thơ nhưng không hiểu được
cấu tứ thơ nên chưa thật sự “khoái”, chưa thật sự “thích”.
Sang khổ thứ 2:
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn
kim”
Ơi người nhớn nhác đi
tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Vẫn là những lời bâng
quơ, tự thán, tự kể về mối tình trai gái, không đẩy cảm xúc thành cao trào, cứ
hờ hững, trôi xuôi mà cũng chẳng mấy ăn nhập với tâm trạng ở khổ thơ đầu. Tiết
tấu thơ chậm, dàn trải, không rõ đại từ nhân xưng, dẫu khiến tâm trạng người
đọc bảng lảng, buồn mang mác đấy nhưng vẫn “không khoái”, “không thích” vì khó
“bắt” tứ thơ.
Sang khổ 3, khổ kết của
bài:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
Nhịp thơ trầm, lắng, cảm
xúc dâng trào, được đẩy lên với sự thúc giục, thảng thốt, của nghẹn ngào nước
mắt, của “chấp chới cánh diều” giữa “trời mưa” nặng hạt, “gió gằn”... nhưng người đọc vẫn khó
“nắm” được tứ thơ dù khổ 3 có cái kết như một triết lý sống, như một mệnh đề để
kết thúc bài thơ như vẫn thường thấy. Đến đây, dù đã đọc xong bài thơ, vẫn thấy
mơ hồ, vẫn chưa thể nhận rõ ra “ai” với “ai” và tác giả “gửi gắm” những gì ở
bài thơ này. Vì thế, bài thơ tạo cảm giác hư hư ảo ảo, lâng lâng, khó hiểu.
Mới đọc, dễ có cảm giác Chấp
Chới như được ghép thành từ 3 bài thơ, với 3 cách nhìn ở 3 tâm trạng
khác nhau, không có sự liên kết hoặc sự liên kết lỏng lẻo vì khó “bắt” được tứ
thơ. Người không tinh sẽ bảo bài thơ bị tản vì tứ thơ bảng lảng như sương mù,
không (có) rõ, thậm chí nếu khó tính còn hạ bút phê là thơ viết vội, không có
tứ, nhưng thực ra bài thơ này viết theo lối mới, hiện đại: dùng tâm trạng và
nhạc điệu để vẽ lên tứ thơ (tứ kín) nên tứ tập trung vào từng khổ thơ, tứ chỉ
để phục vụ cái tâm trạng của nhà thơ, của người đàn ông đang đau khổ trước sự
đổ vỡ của tình yêu đôi lứa. Đây là cách viết táo bạo, hơi liều, bởi nếu viết
không khéo sẽ dễ bị “cảm” là viết ẩu, viết không tới. Là cây bút mới (về thơ),
không nên dại dột thử sức như thế này, cho dù như anh tâm sự trên trang
facebook là “mượn thơ chỉ để giãi bày tâm sự”.
Tóm lại, Chấp
Chới là bài thơ có tâm trạng, có hình tượng, có nhạc điệu, chuyển cấu
tứ rất nhanh nhưng đọc Chấp Chới phải thật tĩnh tâm, nhắm mắt để thả hồn theo ý
thơ, nương theo mạch thơ thì mới cảm được hồn thơ. Nếu đọc Chấp Chới theo lối truyền
thống, có vào đề, đến nội dung, rồi kết thúc như xưa nay thì khó “cảm” được
“hồn cốt” bài thơ này.
Vài lời cảm nhận cá nhân
khi đọc bài thơ Chấp Chới, có gì bất cập mong được bạn đọc, nhất là các nhà
thơ, nhà phê bình văn học chiếu cố, đại xá cho kẻ hậu sinh “múa rìu qua mắt
thợ”.
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
ĐỌC “CHẤP CHỚI”, THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Dầu tác giả Đỗ Anh Tuyến đã viết một bài bình cho bài thơ này
và nhận xét “Chấp Chới chưa phải
là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình”
thì tôi
vẫn đánh giá nó là một bài thơ hay vì nó đã là “một bài thơ khá, trên mức trung bình” thì phải là một bài
thơ hay rồi. Tôi đã viết nhiều bài cảm nhận về thơ Đặng Xuân Xuyến
nên tôi không muốn viết nữa về anh. Thế nhưng đọc “Chấp Chới”
xong thì trí óc tôi cứ ngứa ngáy như thơ anh có chất gì gây
ngứa cho tôi. Ngứa thì phải gãi, không gãi thì nó cứ ngứa. Vậy nên tôi
phải viết. Đây là viết cho tôi, như mình tự gãi cho đã ngứa mình, chớ
không phải viết cho nhà thơ chút nào.
Khổ thơ thứ nhất vào đề cho ta liên tưởng đến hình ảnh xa xưa
của cái thời hát dân ca thịnh hành ở các miền quê Bắc bộ.
Có người líu ríu theo
chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Các cụm từ “líu ríu theo
chồng” cho ta nghĩ đến một đám cưới ép duyên.
Rồi các câu thơ “Buông lơi câu
hát/ Bỏ ngày xuân ngăn ngắt/ Thúc nhịp trống dồn” khiến ta liên
nghĩ đến vô vàn hội hè, đình đám gọi là “văn hoá phi vật thể” của
cái thời mà nông thôn còn nguyên bản sắc của nó. Ngày nay, các hội
hè đó được lập lại một cách giả tạo mà nếu đưa vào thơ thì nó
trở thành nhạt nhẽo cho thơ. Vậy nên đọc bốn câu thơ trên ta phải nghĩ
về quá khứ thì mới thấy rung động bởi vàng son của một thời và
bởi niềm đau của người phụ nữ trong thời lạc hậu xa xưa mà ngày nay
rất ít xảy ra.
Vậy khổ thơ hay chổ nào?
Hay ở chỗ nói cụt ngủn mà lại diễn đạt tràn lan. Ta đọc thơ,
hiểu được tính cách cô gái, thấy được làng quê yên bình, cảm nhận
được dáng dấp cô gái bị ép theo chồng, và tất cả tâm hồn ta như
đứng giữa cái khung cảnh yêu thương, gắn bó, cộng với nỗi buồn điểm
xuyết, làm cho thi vị trong tâm hồn được thắm thiết thêm.
Vế thơ thứ hai diễn tả cái gì?
- Thất tình và đi tìm kỷ niệm:
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn
kim”
Ơi người nhớn nhác đi
tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Người “xe chỉ luồn kim”
là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se
sắt”. Còn người ở lại thì lang thang “Đầu ghềnh cuối bãi” và mê mải trong tâm đi tìm kỷ niệm của quá
khứ.
Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà dựt”, “cà dựt”,
nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng gì nhau,
nhưng chính cái “cà dựt” đó làm cho tiếng thơ trở
nên dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm xúc và trọn
vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.
Qua khổ thơ thứ ba
tác gỉả Đặng Xuân Xuyến dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên
tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm
cho nghẹn ngào, uất ức:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
Cuối cùng, tác giả dùng câu thơ “Chấp
chới cánh diều” để hình tượng cho bài thơ “Chấp Chới” của
mình. Đó là một kết luận tuyệt hảo diễn đạt toàn bộ sự chao đảo,
nỗi cô đơn và vẻ đẹp lung linh của mối tình như cánh diều chấp chới
giữa bầu trời.
“Chấp chới” là một bài
thơ vô cùng “chấp chới”. Nó đúng
như là cánh diều vút lên rồi chao lượn trên nền trời. Nó làm người
xem cứ ồ lên tán thán vì nhìn đã con mắt, bởi chính “Chấp chới” là một “cánh diều” vừa lạ lại vừa lả
lướt tung hoành trên bầu trời, đem lại cảm giác mãn nhãn cho người xem ./.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
MỘT TÔI
(tặng cháu Đặng Hải)
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
*.
Hà Nội, 22 tháng 11.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“MỘT TÔI” - CUỘC ĐỘC ẨM NHIỀU CẢM
XÚC
Trước hết là bài “Một
tôi” với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có
6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn
chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh
quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài
tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có một, chén rượu
cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm gì vì có
thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy rượu
để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ chén
uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng
đều là số chẵn vì người Á Đông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi
đủ cặp. Câu thơ “Một chén”
vì người uống rượu không có ai khác ngoài “Một
tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối
cảnh không gian và thời gian lại là:
Một đêm gió quẩn
chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió cứ mãi
chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.
Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió
cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh
lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai
đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:
Một bàn tay lạnh
quờ vai lạnh
Bàn tay của mình quờ tìm lên
vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh
và bờ vai cũng lạnh làm bật lên:
Một tiếng thở dài
tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc.
Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả
còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu
đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc
bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu
thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho
thân phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc
Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn
canh,
Giật mình mình lại
thương mình xót xa.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“MỘT TÔI” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Người ta thường nói những gì nghĩ ra
trong lúc say, nói trong lúc say là những gì chân thật nhất. Đó cũng là lúc mà
những bài thơ mà chính tác giả khi say viết hoặc khi tức cảnh sinh tình viết ra
nói lên biết bao tâm trạng của kẻ say rượu hay nói đúng hơn là say tình.
Khi nói về thơ về rượu với những cảm
xúc buồn của chính tác giả, chiêm nghiệm về nỗi buồn nhân thế thì đều thấm đẫm
nhân tình thế thái. Người ta thường nói thưởng trà không nên quá 3 người vì sẽ
không cảm nhận được cái ngon của trà, cái hay của câu chuyện người nói. Còn
thưởng rượu thì cần phải từ 4 người trở lên thì cuộc vui mới dài mới lâu. Thế
nhưng, có những cuộc rượu “độc ẩm” một mình của nhà thơ. Ấy thế mà say, mà đau
mà buồn mà tràn đầy cảm xúc xuyến xang khó có thể “tỉnh”ngay được.
Nếu bạn đang yêu, đã yêu hoặc trải
qua một cuộc tình dang dở hay đơn giản đang buồn vì “không hiểu vì sao tôi buồn” thì
hãy cùng Duy Quang hòa mình trong những áng thơ của nhà văn Đặng Xuân
Xuyến dưới đây nhé. Mỗi bài thơ của ông đều để lại cảm xúc chân thật nhất, đảm
bảo sẽ nói lên được tâm trạng của chính bạn.
Cả bài thơ chỉ có 6 câu đều bắt đầu bằng
từ “Một”.
Như vậy cũng đủ để thấy cái cô đơn hiu quạnh của thi sĩ khi chỉ có chén rượu
làm bạn mà thôi. Một chai rượu này có to hay nhỏ thì cũng có quan trọng gì.
Quan trọng là chỉ có một chén kia. Người uống rượu thật chẳng biết tâm sự cùng
ai. Nhất là nó lại trong một không gian không thể hiu quạnh hơn:
Một đêm gió quẩn chỗ tôi
ngồi
Cái đêm lạnh ấy, làn gió cứ mãi
chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé. Thi nhân thì
cô đơn đến làn gió cũng cô đơn không kém. Tác giả thật tinh tế khi đã nhân hóa
cơn gió như một con người đến làm bạn với mình vậy. Nhưng vẫn không thể nói hết
được cái buồn nơi đây. Không có ai sẻ chia, chính bàn tay lạnh cóng của mình
quờ lên vai của chính mình, buông một tiếng thở dài trong đêm cô đơn.
Bài thơ thật đặc biệt. Ngắn gọn và
súc tích với nghệ thuật điệp lại từ “Một” ở mỗi đầu câu. Các câu thơ liên tiếp nhau
từ 2 tiếng đến 3 tiếng diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết
thúc bằng một hơi thở dài buồn bã.
Khi đọc những vần thơ của Đặng Xuân
Xuyến, Duy Quang bất giác lại nhớ đến tâm trạng nàng Kiều của Đại thi hào
Nguyễn Du hơn 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn
canh,
Giật mình mình lại
thương mình xót xa.
Phải chăng đó cũng chính là tâm
trạng xót xa, bẽ bàng cho thân phận của mình mà Đặng Xuân Xuyến không nói ra?!
--------------
(Trích từ “Chùm thơ về rượu hay nhất, cảm xúc, tâm trạng” của Nguyễn Duy
Quang)
*
NGUYỄN DUY QUANG
Địa chỉ: Số 254 Nguyễn Đình Chiểu
Phường 6, Quận 3, thành phố Sài Gòn.
Email: kenhsntv.vn@gmail.com
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Là người Việt Nam không
ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời.
Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài
thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều
câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại
thương cho phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính
quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy
vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công
bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới
đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang
đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi
mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống mỗi vùng
quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát
khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh
áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.
Nhìn từ bên ngoài:
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt
thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật bên
trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng
con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra
rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị
cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ
hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi
mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu
từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà
nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể
tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải
rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ…
Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ
khắc họa cái nghèo rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo
khó
Mà cuộc sống khổ nghèo
trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn
mai chưa biết thế nào.
Hình ảnh trong bài thơ
của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi
những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba
nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây
còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt
nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên
người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được
lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc
suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên
nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài,
tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê
đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình
không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển,
nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với
biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn
nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt
lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như
thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than
đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được
hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta
cái tình, tình người muôn thuở.
Làng thơ Việt Nam bây
giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật
đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội
nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song
ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch,
bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì
để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất
công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú...
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được
ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp
Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu
thích, trong đó có bài “Quê nghèo” của Phạm Duy mà tôi
có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình,
cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre còm tả tơi”…
Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không
còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng
chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào
lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát
những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác
xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa
cờ đỏ ven đê...". Vì thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng
lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.
Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại hiện
lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một thời
vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn như
mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ
chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn thảm và dai
dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đã phô ra
5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của
người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi
mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp
tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua
năm tháng.
Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà
tranh thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn
chát” thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã
lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ
khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ
tư phải tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu
lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay la/ bay từ cửa phủ
bay ra cánh đồng hay những cánh
cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là
những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…
Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân
Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm
1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ
lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả
tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là
một tiếng kêu thống thiết:
Chiều rơi thoi thóp trên
vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy
vẫn còn có niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu
cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương
của mẹ:
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Sau hơn 60 năm đi theo con đường của
chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ
đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà
thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà
Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố
Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn
không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn
chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn
len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ
của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh
chợ làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con
tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và phong
phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không
chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân
thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa
làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người
ao ước: Muốn cho gần chợ mà chơi / Gần
sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà
thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như
nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như
vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều chung
một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn chút sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài
lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Nhìn lũ trẻ Quê
nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát
trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió
đẩy… về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi lại ùa về thêm trong tôi những
lời kể của nhà văn Tô Hoài: “cái
thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi.
Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì
kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót
dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi.
Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn,
nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con
luộc..." (trích Chiều chiều).
Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con
còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo,
rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới
ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.
Những thân hình đói khổ ấy làm sao
chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như
chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù
hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên
đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo
lắm ấy là từ đâu?
Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời
chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Tiếng oan khiên từ thời
Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng
làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê
Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó
được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng
bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có
điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm
tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với
những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa
đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ
màng
Hiện ra khi thoáng cổng
làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê
thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng
không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng
nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt
thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng
câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê
tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo
trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì
đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về
những người có hoài bão, biết ước mơ!
Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu
người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo
mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì
bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng
được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương,
nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc
động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình.
Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều
người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.
*
Sài Gòn 17 tháng 06/2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” - XÓT XA NHỮNG TIẾNG
LÒNG
Ngoài kia Ngâu đang rả
rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!
Mà cũng lạ, cái quê này
ở đâu vậy nhỉ? Cố tìm một địa danh mà chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên tưởng đến quê
mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương gần lại càng
thương.
Tác giả đã nói hộ mọi
người:
Quê tôi nghèo lắm
(…)
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu ...
Đọc hai câu thơ này
giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành.
Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác
giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn
tăn về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa
trọn!
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ ...
Trời ạ, khi đói chả ai
ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng
réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ
mà không làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên
đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa,
đến: Cánh cò (còn phải) bấu bíu
lời ru!
Câu thơ đến đây làm
nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương
cái thân phận của mình.
Có người nói: muốn biết
vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua.
Ế bán
Chán mua
Lại một lần nữa cách
diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất
nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật,
tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa
hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên
đồng đất của mình.
Người nông dân thua trận
ngay trên quê mình, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy.
Đặng Xuân Xuyến
ơi:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như
là rơi nghiêng”
- (Trần Đăng Khoa)
Đặng Xuân Xuyến đã làm
tôi liên tưởng so sánh về sự hòa hồn với quê hương tới mức đồng thể!
Ngạc nhiên thật. Thơ
không giấu được về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và
công bằng.
Bẵng đi... đến thời nay
(mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):
Chiếc cổng làng dựng nên
thật đẹp
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai...
Để:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Quê tôi nghèo
Nghèo (đến) cả giấc mơ!
Đúng là hình ảnh làng
văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn
làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi
nghèo! Ta đã thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng
thèm thích nghi nữa.
Con cò: bấu
víu lời ru
Con người: nghèo
cả giấc mơ!
Mơ chả mất tiền, không
ai đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời.
Ngoài kia giọt mưa thu
đã ngừng rơi
Còn trong lòng mưa vẫn
rơi sùi sụt!
Thương cho những quê
nghèo với những xót xa tiếng lòng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân
Xuyến!
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, t/p Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”
- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -
Bài này (Quê Nghèo) nhà phê bình Nguyễn Bàng đã
viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông
Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch,
hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.
1/ Nhịp
điệu: Số câu trong bài không bị bó
buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật
nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng
chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp
với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu,
đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải
mái.
2/ Vần: Tôi có
cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình
thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã
có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng
đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn
mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Tiếng oan khiên từ thời
Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Không biết do tác giả có tài
hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.
3/ Dòng
chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp
nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu
thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất
khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội
cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm
xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát
ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp
lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp
điệu thơ nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất
trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được
cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.
Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách làm thơ”
của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng.
Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong
cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân
cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt
phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi
sau thiên hạ một bước.
Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài
về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo
của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài
chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế,
trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử
dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một
lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ
đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số
cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng
và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của
anh bị lãng quên.
Theo tôi, riêng về phần kỹ
thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc
Mai - người tôi nói đến ở bài 2 - anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ
và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý
thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và
gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu
anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc
ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi
pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
*
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
CHIẾC CỔNG LÀNG ĐẶC BIỆT TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“Quê
nghèo là một trong số những bài thơ hay
của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính
kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng
quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của
người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng
độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong
khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là
cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế đã
giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng
kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ
cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai”
cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các
loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm
đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng -
biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không
chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”,
mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức:
“Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ.”
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chưa bàn đến hay, không hay
nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả.
Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Cảnh quê nghèo này nó nhang
nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét. Từ ngày
cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng còn nhiều người đói khổ, tuy nhiên,
những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đã đổi đời, con em họ được đi
học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xã hội. Tuy nhiên xã hội nào
cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt tích cực.
Với bác PHẠM ĐỨC NHÌ
Dù cho tôi không biết bác là
ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và
khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi
bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của
anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”.
Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc
yêu đương phải không bác?
“Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết
bài thơ để đời của mình.”. Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn nữa đưa
ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.
Nếu nghe câu này chắc chắn lúc
đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả
người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật
tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm,
hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để
bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy
nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của
từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Tuy nhiên bác vẫn thừa nhận
những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng rõ
ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài
thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia
quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức
gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.”
Nếu không thực sự yêu mến nhà
thơ thì bác ấy đã không mất công để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý như là
góp ý cho một đứa con trai.
“1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi;
số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ,
tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh,
thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng
con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ
một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần:
Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong
lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng
trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có
vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ
ngọt.
3/ Dòng
chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh
mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí
liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho
cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm
xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do
thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán,
rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 -
thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do:
tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.”
Dù muốn hay không muốn bác ấy
cũng đưa ra lời nhận xét rất chân tình: “Không
biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”
Tôi không hiểu nhiều về bóng đá,
và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nhì có
một nhận thúc khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc
vẫn còn giữ thói quen của những nề nếp cũ: “anh
có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc
sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế
trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của
đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ
thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không
được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời
một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”
Với CảnhThư Sg:
Người thực sự chấp nhận được sự
suy nghĩ khác với mình là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời, tôi không
biết tác giả đã từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?
Nhưng lời bình dù chỉ trích của
các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ hiểu được
điều này nên không lên tiếng phản bác?
Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người
đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì
bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có
tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ
rồi”.
Bạn nói rất đúng, nếu không yêu
thì bình làm chi? Còn việc bạn cho rằng : “Ở
một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay không?
Đành rằng bây giờ không chỉ có
kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: “người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc;
đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy
nhiên dù là một người ngoại đạo thì tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận
thơ theo cách riêng của mình. Nhưng tùy theo trình độ và chuyên môn mà người
bình có thể đánh giá bài thơ đó theo cách riêng của họ. Còn theo bản thân tôi
một bài thơ có ý tứ hay người nghe cảm thụ, ngoài ra còn có luật, do đó thơ Lục
bát, thơ thất ngôn bát cú, thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo
đúng luật. Cái hay, cái tài tình cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó?
Ngoài ra qua thơ người ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người
làm thơ. Đố ai tìm được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện
Thanh Quan!!!
Vài ý kiến của một người ngoại
đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến
tận nơi.
*
Ngày 05 tháng 04 năm 2018
NGUYỄN BÍCH THỦY
facebook: Nguyen Bich
Thuy
VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh việc mổ xẻ bài
thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở Bỉ.
Tôi thích bài viết nầy vì lời văn điềm đạm, dễ thương.
Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm Đức Nhì
thì nhiều mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao, đó là phong cách riêng
của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn Bích Thủy đã
cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng
“sau cách mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”.
Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi đời nầy thì phải nhận lại đời khác mà
Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay trong làng, chứng kiến được sự đổi đời
mới đó lại làm cho “Giam hãm đời người/
Tù túng giấc mơ” có khi còn hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống
như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không
thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ” đã làm chế độ
tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.
Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong
bài viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về bài
thơ Quê
Nghèo:
“Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân
Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói
nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn
nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được
nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng
một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”
Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê
nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của
tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về nỗi đau đã
đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng
gây hệ lụy cho người nông dân.
Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một
bài thơ hay trong một vài trang giấy.
Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài
góp ý nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến”
của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:
“Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại
là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi
lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau
truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng
nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không
chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm
về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng
giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của
những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.”
Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau vì tôi
thấy mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.
Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả Nguyễn
Bích Thủy bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY
Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ
Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có
nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp
Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không
Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô
thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính
thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề.
Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó.
Nguyễn Bích Thủy:
Chưa bàn đến hay, không
hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ
này:
“Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác
giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Phạm Đức Nhì:
Nếu cô Nguyễn Bích Thủy
chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến
gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai
của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng
là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì
cái loại thơ ấy không đáng để ý, không phải là thứ thơ mà nhân loại đang hướng
tới.
Dĩ nhiên trong thơ cũng
có những nhân tố khách quan, nhưng những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả
là chính. Nhiều khi những cái khách quan được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi
bật những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả. Chính “chủ quan của tác giả”
mới làm bài thơ có cá tính (không chỉ viết về những cái ai cũng biết rồi), mới
làm nên giá trị của bài thơ, miễn là những “chủ quan của tác giả” hợp lý
hợp tình và những sự kiện khách quan cũng hợp tình hợp lý.
Câu nói của cô
Nguyễn Bích Thủy có hai phần; phần đầu đúng, còn phần sau thì sai nặng.
Nguyễn Bích Thủy:
Dù cho tôi không biết
bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng
thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ
cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để ‘mách nước’
cho anh bứt phá chạy mau đến ‘bến bờ thi ca’”. Điều này chả ai giúp ai được bác
ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?
Phạm Đức Nhì:
Thích bóng đá nên có một
thời gian ngắn tôi được một người bạn mời đi xem những trận đấu của các đội
tuyển xã tranh vô địch cấp huyện. Mục đích của anh bạn là muốn nhờ tôi “xem
giò, xem cẳng” những cầu thủ trẻ. Nếu thấy em nào “đá có nét”, có triển vọng
anh sẽ tìm cách rủ rê, mời gọi về làm lực lượng trừ bị cho đội tuyển của một
ngành công nghiệp. Anh cho tôi biết hãy chú trọng vào cách giữ bóng, che bóng,
đi bóng, lừa bóng, khả năng sút bóng xa của các em, còn những kỹ thuật khác khi
tuyển về sẽ huấn luyện thêm.
Trong thơ cũng
vậy. Có thể nói ngoại trừ cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc mà nếu lên đến đỉnh
điểm khi bài thơ có cao trào sẽ thành hồn thơ - là không ai có thể dạy ai đưa
nó vào bài thơ được. Còn thì - đặc biệt ở phần thi pháp, mang tính kỹ thuật -
cái gì cũng có thể học hỏi được. Dĩ nhiên, học là học lý thuyết. Bước vào thực
hành, mỗi người một vẻ, kẻ thất bại, người thành công, chẳng ai dám nói mạnh.
Riêng với Đặng Xuân
Xuyến, tôi đã “xem giò, xem cẳng”, đọc thơ của anh khá nhiều và đã “chấm” sự
đột phá trong thi pháp của anh. Trong bài Quê Nghèo, về hình
thức anh đã đạp đổ truyền thống, vượt qua thơ mới, đang trụ ở thơ mới biến thể
mà những sợi dây níu kéo đang đứt dần để vươn tới một thể thơ “chưa có tên” -
vần vừa độ ngọt, tứ thơ thông thoáng, nhịp độ thay đổi theo cảm xúc đang chảy
thành dòng ... - nếu viết trong tâm thế cực kỳ phấn khích có thể thẳng hướng “Bến
Bờ Thi Ca”.
Những khuyết điểm, sai
phạm về mặt câu chữ, ngay cả thế trận cũng có thể sửa chữa không mấy khó khăn,
nhưng cái tay nghề vững vàng đã trở thành thói quen trong thi pháp của anh
không thể một sớm một chiều mà có được. Nếu Đặng Xuân Xuyến nghe lời “mách
nước” của tôi, nhận ra khả năng và thế mạnh của mình, anh sẽ tự tin hơn khi
viết những bài thơ kế tiếp. Với thơ thì không nói chắc được, nhưng anh Đặng
Xuân Xuyến còn trẻ, thời gian dành cho thơ còn dài, việc để lại cho đời một đôi
bài thơ sáng giá không phải là điều không tưởng.
Cô Nguyễn Bích Thủy cho
rằng: “Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự
nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương” là do cô đọc thơ chỉ
như người “cỡi ngựa xem hoa”, chưa đi sâu nên chưa hiểu, chưa biết.
Nguyễn Bích Thủy:
Nếu nghe câu này chắc
chắn lúc đầu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình
ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa
mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng
chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn,
tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc
của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Phạm Đức Nhì:
Bình thơ là công việc
nặng tính chủ quan. Người bình đem kiến thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của
mình để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít
những tác phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ - “dù là cảm xúc của từng người” -
đều có chỗ hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ sai phạm. Nhiệm vụ của người
bình là chỉ ra những chỗ hay, vạch ra những chỗ dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân
nhắc, khen, chê bài thơ cho đúng mức.
Thí dụ bài Quê
Nghèo của Đặng Xuân Xuyến, tác giả đã có mấy câu nói về “Lũ trẻ”
trong làng:
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Và “Lũ Trai”:
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo
khó
Nơm nớp âu lo đời như
chiếu bạc
Còn “lũ con gái” thì
sao? Đặng Xuân Xuyến đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây
cũng là một chỗ sai phạm.
Câu thơ: “Tù túng giấc mơ” trong đoạn: Chiếc cổng làng thành tai hại/ Giam hãm đời
người/ Tù túng giấc mơ. theo tôi, thật tuyệt vời. Nhưng đã làm 2 câu: Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ. mất tính bất ngờ và nhạt hẳn đi về mặt ý nghĩa.
Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có thể nói trong Quê
Nghèo đội của Đặng Xuân Xuyến đi bóng, lừa bóng, chuyền bóng rất
điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương thay vì ghi bàn thắng lại đá ra
ngoài.
Tôi, ở đây không bình
thơ mà chỉ bàn đôi chút về thi pháp nên không đi sâu thêm nữa. Còn nói như
cô Nguyễn Bích Thủy “nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc,
nguyên tắc gì” thì đúng là một phát biểu kiểu “điếc không sợ súng”.
Cô chỉ cần tìm đọc kỹ vài bài thơ mới thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ
nào.
Nguyễn Bích Thủy:
“người đọc thơ
cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay,
khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!”
Phạm Đức Nhì:
Những người đã lỡ yêu
thích thơ, nếu có cơ hội, đều muốn tìm học để nâng cao trình độ hiểu biết,
trình độ thưởng thức thơ của mình. Trong những lúc họp mặt bạn bè, đám tiệc,
nói chung là trà dư tửu hậu, có nói đến bài thơ tình này, bài thơ thế sự kia
thì cũng biết đôi điều góp chuyện. Chứ cứ như cô Nguyễn Bích Thủy “thích
thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!”
lỡ nguời ta hỏi “Hay ở chỗ nào? Tại sao hay? Dở ở chỗ nào? Tại sao dở”
lại ngớ mặt ra im lặng thì ngượng chết.
Thưởng thức thơ có nhiều
trình độ. Muốn nâng cao trình độ của mình không gì bằng tìm hiểu thi pháp. Chữ
thì hơi cao siêu nhưng nghĩa thì lại đơn giản - chỉ là kỹ thuật thơ hoặc hình
thức, vóc dáng của bài thơ.
Tôi nhớ hình như đã viết
ở đâu đó:
Có tý hiểu biết về kỹ thuật, các tiêu chí để thẩm
định giá trị thi ca, người đọc sẽ không còn ù ù cạc cạc khi đọc, khi nghe hoặc
ngâm nga những vần thơ ưa thích mà sẽ tự tin hơn, sảng khoái hơn thả hồn vào
dòng thơ. Đọc thơ bằng trí sẽ không thấy được hơi nóng cảm xúc, sẽ không cảm
được cái hay trọn vẹn của thơ, không “bắt” được hồn thơ (nếu có). Còn nếu chỉ
đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng của kiến thức thì một là, có khi gặp
tuyệt tác thi ca thì lại dè bỉu, chê bai, hai là, suốt đời “tự sướng”, sướng mà
không biết vì sao mình sướng, miệng ngâm nga những vần thơ “cả đẩn” mà mắt cứ
sáng long lanh, mặt cứ rạng rỡ như đóa hoa xuân. Đó là cái sướng của những kẻ
“ngây ngô hưởng thái bình” rất tội nghiệp, rất đáng thương.
Trong quân đội người ta
thường nói “Nhìn quân phục biết tư cách”. Thi pháp quan trọng đến mức
trong thơ, theo tôi, câu tương tự sẽ là: “Nhìn thi pháp biết đẳng cấp của
thi sĩ”
Nguyễn Bích Thủy:
Vài ý kiến
riêng của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném
đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.
Phạm Đức Nhì:
Cô Nguyễn Bích Thủy đừng
lo. Trong tranh luận văn chương, nếu cứ nhắm vào đối tượng tranh luận mà bàn
cãi thì dù đúng hay sai cũng được độc giả hoan nghênh, vì bất cứ cuộc tranh
luận văn chương lành mạnh nào cũng đem lợi ích đến cho văn chương, cho độc giả
và cho cả đôi bên tranh luận. Miễn là đừng nhắm vào “chủ thể đối luận” mà
phang, mà bửa - nghĩa là đừng chơi trò bỏ bóng đá người. Chơi kiểu đó thì dù ở
Bỉ hay chui vào hang sâu hố thẳm nào đó ở Thái Bình Dương người ta vẫn ném đá.
Và đã ném là trúng đích.
Kết Luận
Qua bài viết Vài
Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô
Nguyễn Bích Thủy đã bộc lộ khá rõ một điều. Những gì cô cảm nhận - về mặt tình
- rất chính xác và sâu sắc, chứng tỏ cô có một tâm hồn nhạy bén và có nhiều
trải nghiệm về mặt tình cảm trong cuộc sống. Nhưng những phát biểu của cô liên
quan đến mặt lý - ở đây là sự hiểu biết về thơ - thì lại mắc nhiều sai sót. Chỉ
cần có thêm chút ít nội lực ở phần này những “góp ý” của cô không những sẽ được
độc giả đặc biệt hoan nghênh mà, đối với thơ, lại còn là những đóng góp rất hữu
ích nữa.
*
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
GÁNH HÁT
Ngẩng mặt lên anh
Quệt nước mắt đi anh
Dừng thôi mấy trò “con hát”
Đời vốn đủ đắng cay mặn chát
Nếm cả đi anh để thấu hiểu lẽ đời
Đừng đắp điếm nụ cười
Đừng ép niềm tin đem tráo đổi
Chẳng phải quan tham
Chẳng cố phạm sai lầm
Hà tất ngán mặt sắt đen sì xét xử
Hà tất khiếp lòng người giận dữ
Chẳng sợ làm ma trong tù
Chẳng sợ tòa tuyên án tử
Ngẩng đầu lên để không thẹn sống hèn.
Thôi nín đi mấy anh mấy chị
Thương vay khóc mướn thế đủ rồi
Bữa sáng người ta ăn
Bằng cả tháng nhà đông con không
cần chi tiêu tằn tiện
Chai rượu người ta uống
Hơn tháng đẫm lưng mồ hôi đám người lao động
Người ta ở nhà lầu
Người ta đi xe hơi
Con cái ngông nghênh tiêu tiền chẳng phải nghĩ
Tiền ở đâu ra
Của ông của cha
Hay thiên hạ xót nghèo đã nhón tay “lại quả”.
Đúng sai đã có quan tòa
Anh hãy ngẩng cao đầu
Thử một lần làm đấng trượng phu
Và đám mấy người kia
Đâu cần rủ nhau khóc mướn.
*
Hà Nội, sáng 16 tháng 01.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI NHẬN XÉT VỀ BÀI THƠ “GÁNH HÁT”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Cám ơn Đặng Xuân Xuyến đã
gởi cho tôi đọc bài thơ GÁNH HÁT.
Sau đây là vài nhận xét
xổi.
Những cái dở:
1/ Tứ qua Ý không
đủ dữ kiện để liên tưởng. Tôi có thể đoán Đặng Xuân Xuyến đang muốn nói đến ai.
Chỉ đoán. Chưa chắc đã đúng. Nhiều người đọc khác mù tịt.
2/ Giọng điệu kẻ cả,
thường không nhận được thiện cảm của người đọc.
3/ “Đúng sai đã có quan tòa”: Nói như thế không thuyết phục. Công lý
của những cuộc xử án ở Việt Nam hơi bị “thiếu niềm tin”.
4/ Thế trận của bài thơ
không chặt chẽ. Một đôi chỗ hở sườn.
5/ Cái tựa không hay.
Đoạn kết chưa đắt, ấn tượng không sâu.
Những cái hay của bài thơ:
1/ Hình thức thơ:
Phóng khoáng tự do. Có được cái nhìn và thói quen như thế không phải dễ. Rất
nhiều nhà thơ tiếng tăm vẫn bị trói buộc bởi thể thơ, vẫn chấp nhận trói tay
chui vào trong cũi. Cũi xấu, cũi đẹp, cũi cũ, cũi mới cũng đều là CŨI.
2/ Vần thoang
thoảng vừa độ - không quá ngọt như các thể thơ truyền thống, không khô cứng như
thơ tự do (không vần).
3/ Thơ nhất khí liền
mạch, không có những bảng Stop làm khựng dòng chảy của tứ thơ.
4/ Ngôn ngữ, hình tượng
là thế mạnh của Đặng Xuân Xuyến. Nó hỗ trợ rất nhiều cho việc chuyển tải
tứ thơ.
5/ Cảm xúc tầng 3 - thứ
cảm xúc tươi mát nhất, cao cấp nhất có xuất hiện nhờ tác giả viết trong lúc cao
hứng. Nhưng những khiếm khuyết về thế trận đã trì kéo không cho cảm xúc đó lớn
mạnh hơn.
Tóm lại bài thơ chỉ ở
mức trung bình nhưng tôi thấy tác giả thủ đắc một số kỹ năng rất quan trọng,
đặc biệt làm thơ lúc có hứng - truyền được cảm xúc tầng 3 vào thơ. Nếu giải
quyết được những khuyết điểm ở trên, chọn được tứ thơ hay thơ Đặng Xuân Xuyến
có nhiều cơ hội đi tới bến.
*
League City, 17 tháng 01.2018
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
ĐỌC “GÁNH HÁT” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đọc “Gánh
Hát” ta biết ngay nhà thơ đề cập đến một hiện tượng đã xảy ra nhiều lần
ngoài đời, trong mọi thời đại, tại các nơi cầm cán cân công lý để xét xử những
người có tội.
Đọc “Gánh
Hát” ta biết ngay nhà thơ khuyên nhủ (nhưng thật ra là miệt thị) những
kẻ phạm tội mà còn tráo trở khi đứng trước vành móng ngựa, dùng mọi hành vi giả
tạo, đóng kịch để lấp liếm, hòng đánh động lòng trắc ẩn của quan tòa và dư luận
quần chúng.
Những con người như thế
ta thấy đầy dẫy trên các phim Bao Công xử án thuở xa xưa, nhiều nhất ở bọn quan
quyền hút xương máu nhân dân. Đáng tiếc thay, chuyện ngày xưa tưởng đã lạc hậu,
ngày nay vẫn còn mà lại còn sống sượng hơn nhiều.
Nhà thơ vào đề khuyên bị
cáo hãy ngẩng mặt lên:
Ngẩng mặt lên anh
Quệt nước mắt đi anh
Dừng thôi mấy trò “con
hát”
Đời vốn đủ đắng cay mặn
chát
Nếm cả đi anh để thấu
hiểu lẽ đời
Đừng đắp điếm nụ cười
Đừng ép niềm tin đem
tráo đổi
Đoạn thơ cho ta thấy,
bằng những lời đanh thép, có chút mỉa mai, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến kích động
cái chất Người trong con người của bị cáo, để anh ta ngẩng cao đầu,
đối diện với sự thật được công bố trước mắt. Nhà thơ dùng các chữ “con hát”,
“đắp điếm nụ cười”, “đừng ép niềm tin” để gián tiếp cho người đọc thơ biết bị
cáo là người có tội, đang đóng kịch bỉ ổi trước quan tòa.
Đoạn thơ kế tiếp, nhà
thơ đã vạch mặt tên hề mang khuôn mặt giả tạo bằng những luận chứng vô cùng sắc
sảo:
Chẳng phải quan tham
Chẳng cố phạm sai lầm
Hà tất ngán mặt sắt đen
sì xét xử
Hà tất khiếp lòng người
giận dữ
Chẳng sợ làm ma trong tù
Chẳng sợ tòa tuyên án tử
Ngẩng đầu lên để không
thẹn sống hèn.
Đọc đoạn thơ nầy ai cũng
thấy thú vị bởi đã làm lộ tẩy những điều tội phạm dùng dáng dấp của mình để che
giấu tội ác.
Đây không phải là những
lời thơ kẻ cả mà Đặng Xuân Xuyến phát ngôn trịch thượng. Đây là những lời thơ
mà Đặng Xuân Xuyến thay mặt công lý kêu gọi lương tri của người phạm tội. Những
lời thơ nầy có ở tất cả trong lòng bạn đọc, những người yêu sự thật, ghét dối
trá sẽ thấy hả hê khi đọc nó, vì Đặng Xuân Xuyến đã nói thay lời muốn nói của
họ.
Quả thật ở thời đại nào
cũng thế, những tên hề đóng khéo nhiều khi làm mềm yếu trái tim xã hội, có khi
là cả một phần nhân loại. Không thế thì không có một Hit-Le kéo cả một thế hệ
theo ông ta, làm tan nát thế giới, đến nay đảng của hắn vẫn còn tồn tại dầu yếu
và “hoạt động” trong bóng tối. Không thế thì một tên tướng cướp Ba-Ra Ba không
được dân Do Thái biểu quyết tha tôi để giết Chúa Jêsus. Không thế thì Bao Công
không phải xử đi xử lại nhiều lần và nhiều phen xin từ chức trước vua. Thời đại
nầy cũng thế, những tên tôi phạm có đủ sự lừa lọc, dối trá để kích động tình
thương của một lớp người nhẹ dạ, dễ tin để khóc cho chúng, xin tha tội chúng và
nguyền rủa những người cầm cán cân công lý. Trong đoạn thơ áp chốt nầy Đặng
Xuân Xuyến đẫ đối thoại với những con người ấy:
Thôi nín đi mấy anh mấy
chị
Thương vay khóc mướn thế
đủ rồi
Bữa sáng người ta ăn
Bằng cả tháng nhà đông
con không cần chi tiêu tằn tiện
Chai rượu người ta uống
Hơn tháng đẫm lưng mồ
hôi đám người lao động
Người ta ở nhà lầu
Người ta đi xe hơi
Con cái ngông nghênh
tiêu tiền chẳng phải nghĩ
Tiền ở đâu ra
Của ông của cha
Hay thiên hạ xót nghèo
đã nhón tay “lại quả”.
Nhà thơ đã dùng lời thơ
nhẹ nhàng để như giải thích, như phủ dụ, như tâm tình, lột cái vỏ bọc của bọn
ác bá, bày cái mặt thật xấu xa của bọn tội phạm trước ánh sáng, mở mắt mù tối
của những quả tim “thật thà là cha đứa dại”.
Ở khổ thơ chót, Đặng
Xuân Xuyến đã kết lại một lời ngắn gọn cho cả hai hạng người, bọn tội phạm đóng
kịch trước vành móng ngựa và bọn thương vay khóc mướn vỉ tiền thuê cũng có, vì
áp lực cũng có và vị cái ruột ngựa dễ tin lời tuyên truyền xảo trá cũng có
vậy:
Đúng sai đã có quan tòa
Anh hãy ngẩng cao đầu
Thử một lần làm đấng
trượng phu
Và đám mấy người kia
Đâu cần rủ nhau khóc
mướn.
Có người cho rằng cũng
khó tin vào sự đúng, sai của quan tòa. Thật ra chủ ý của bài thơ là lên án bọn
tội phạm làm hề để qua mặt công lý. Vấn đề của nền tư pháp nằm ngoài bài thơ.
Quan tòa dầu công minh hay không công minh cũng không bao giờ xét xử theo sự
cúi đầu, quệt nước mắt, van xin tha thứ của bị can, kể cả làm thành “Gánh hát”
trước vành móng ngựa. Ngoài quan tòa ngồi trên cao còn hàng vạn, hàng triệu
triệu quan tòa là quân chúng nhân dân. Đây mới thật là quan tòa quan trọng.
Bài thơ có một kết cấu
vô cùng chặt chẽ, sít sao từ khổ thơ trên qua khổ thơ dưới. Bài thơ có lý luận
hợp lý, có lúc đanh thép, có lúc khích lệ, khuyến dụ, chuyển tải đến người đọc
một hình ảnh đã có từ thời xa xưa nhưng là thời sự sống động trong hiện tại.
Đọc bài thơ nhắc cho chúng ta và những ai ngồi ở chỗ chức cao trọng vọng hãy
giữ lương tri của mình để làm con Người chớ không làm con ngợm khóc lóc xấu xa.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
DẤU HỎI
- Tặng T.T -
Rau trên luống
chắc gì
rau sẽ sạch
Người thôn quê
đâu hẳn
đã chân quê
Rượu ngàn trận
chửa tin
là tình bạn
Ngủ mòn giường
chưa dám
gọi tình nhân.
*.
Hà Nội, 21 tháng 02.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “DẤU HỎI” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bây giờ khó mà tìm được cái gì đúng
nghĩa lắm. Cái băn khoăn của tác giả, sự nghi ngờ cứ ăn mòn chân giá trị. Thôi
thì đành gạn đục mà khơi trong vậy!
Trong muôn vàn cái giả thế nào chả
có cái thật. Ngay cả bài thơ này cũng vậy, cái giả tạo, cái xấu được bầy ra còn
cái chân, cái đẹp được giấu kín trong câu chữ. NÓ bắt buộc người đọc phải tìm
tòi, chắt lọc để ngộ ra sự thật đáng yêu nằm trong cái bất bình thường vốn
có.
Rau sạch, chân quê, rượu ngon, tình
bạn, tình nhân... từ vật chất đến tình cảm cứ tăng dần theo sự hoài nghi của
tác giả đang trong tâm trạng bất mãn nhưng được diễn đạt bằng cách triết lý mà
chẳng khô khan, độc giả chấp nhận ngay được, chính điều này làm bài thơ thu hút
hơn và hay hơn dù tác giả chả cần dùng mỹ từ, thủ pháp gì cả:
“Rau trên luống chắc gì
rau sẽ sạch
Người thôn quê đâu hẳn
đã chân quê
Rượu ngàn trận chửa tin
là tình bạn
Ngủ mòn giường chưa dám
gọi tình nhân.”
Thơ là vậy, đỏng đảnh là vậy! Tác
giả có cố gắng tìm từ hay ý lạ bao nhiêu thì người đọc lại thấy nó phồm phộp vô
hồn và trơn tuột đi chả đọng lại gì.
Bài thơ này thì khác, mộc mạc như
đang khề khà phê phán về cái xã hội hiện nay qua tiếng rít điếu cầy với làn
khói khoái trí của một lão nông chân quê chính hạng.
Tác giả khôn lắm, cái khôn được chắt
lọc qua bao lần dại nhỡ! Chỉ vài câu đơn giản thôi đã thu lòng độc giả và đẩy
cái hay, cái đẹp, cái chân thực về phía người đọc, bắt họ tự tìm tòi trong muôn
vàn điều chưa đẹp để nảy ra hạt xoàn lấp lánh trong cát bụi cuộc đời.
Đầu năm đọc bài thơ có vẻ chua chát
nhưng vẫn thấy bùi ngọt trong lòng. Cám ơn tác giả!
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
BẠN QUAN
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Mãi long
đong chức phó dân quèn
Mày nhăn mặt chửi tao thằng đểu
Quá nửa đời mãi chửa hết ngu...
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt giống nhau
Mày than đời chỉ rặt những thau
Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.
Tao gật gù giả bộ ngớ ngơ
Khen các quan vì dân vì nước
Nghe nửa câu mắt mày trợn ngược
Chửi tao khùng hệt “lũ dân ngu”
Mày chửi thề đặc giọng quân khu
Đời đã chó
Quan trường càng chó
Rồi nhăn nhó
Than đời mày nhọ
Mấy tháng trời bổng lộc hụt xơi...
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưởng vờ say.
*.
Hà Nội, trưa 18 tháng 03.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “BẠN QUAN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi quen Đặng Xuân Xuyến
đã lâu, từ thuở anh mới dựng nghiệp, mở cửa hàng “phát hành sách”. Là một nhà
thơ, làm bạn hàng gửi sách nhờ anh bán hộ thường xuyên. So với những nơi khác
bao giờ cửa hàng của Xuyến cũng giúp tôi bán được số bản cao gấp bội. Nhìn dáng
vẻ bên ngoài tươi tắn, đẹp trai, hoạt bát và cái phong thái “dứt khoát” mỗi khi
bàn việc…, ở Xuyến tôi thầm nghĩ con đường lập nghiệp gắn với sách vở văn
chương sẽ tiến xa hơn! Bẵng đi một thời gian nền văn chương với những ước vọng
thanh cao bị cuốn vào vòng xoáy kinh tế thị trường không còn phân biệt được đục
trong lẫn lộn. Thơ thành sản phẩm của xã hội hóa cấp thấp, không còn biết viết
để làm gì, viết để vì ai. Tôi cũng nản, ngồi nhìn bút giấy và cũng đã lâu không
gặp Xuyến.
Một hôm, bất ngờ tôi
nhận được tin nhắn của Đặng Xuân Xuyến mời cộng tác với trang mạng của anh… và
tôi được đọc bài thơ rất tâm sự “Bạn quan” anh in trên trang mạng.
Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa
tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực,
nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết
lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy. Thơ
Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô
giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức,
nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai
người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ
thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước
giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa
thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Bài thơ như một bầu tâm
sự dốc thẳng sang nhau không cần niêm luật, kỹ thuật câu chữ. Đoạn đầu còn
tỉnh, lời lẽ thăm dò giao đãi:
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy
tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu
ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm
bộn tiền?
Tình bạn xa lâu gặp lại
nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu
hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của
họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học
giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu,
biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc
bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra
cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ. Những
tưởng chỉ kẻ thua thiệt mới buồn, mới đau, mượn rượu để nói ra lòng mình cho
thỏa:
Mày làm quan chắc kiếm
bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm
lãi
Mày học ngu nhưng thủ
đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù
thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn
Nào ngờ kẻ được mũ cao
áo dài cũng lại ngồi thở than phận kiếp:
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt
giống nhau
Mày than đời chỉ rặt
những thau
Quan càng lớn chữ nhân
càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn
trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào
biết bẩn nhơ.
Những lời bộc trực, thật
lòng này nghe thật tội, thì ra kẻ làm quan đứng trước bàn dân thiên hạ, qua
những cầu truyền hình đi khắp thế gian, nhìn oai phong lẫm liệt, có ai ngờ nơi
tận sâu con tim, khối óc họ cũng bị dày vò, có khi lại gấp bội những buồn đau
túng nghèo cơm áo, cũng thấy được nhục vinh cuộc thế:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt
giống nhau”
“Đời đã chó
Quan trường càng chó”
Thì ra đã là con người
dù giả trá gian manh đến đâu, dù có ngập sâu vào đống bùn nhơ tội lỗi thì thẳm
sâu nơi nào đấy trong linh hồn của họ vẫn nhận ra vị bùn nhơ nơi đầu lưỡi họ đã
ngậm phải. Khác nhau chăng kẻ ngày tháng quen dần với những gì nhơ bẩn, còn có
kẻ còn biết cố trườn ra khỏi những đám bùn nhơ để thở chút khí trời trong lành
trước khi xuôi tay, nhắm mắt. Bởi quyền tước bạc vàng có thể xây được nấm mộ
cao chứ không để lại trong không gian, thời gian được chút tiếng thơm. Huống
chi lúc sống đã bị người đời nguyền rủa.
Cái đau của thân phận
dân đen cũng là đau nhưng có thể mượn phút giây gặp gỡ, nói vung mạng, tung tán
tàn cho hả hê. Còn kẻ chức tước, giàu có, gian manh thì phải đợi lúc:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Bởi đã khoác vào tấm áo
quan trường phải biết học phép mưu ma chước quỷ. Nhiều việc giả danh gian trá
phải giấu kín cả cha mẹ vợ con, đem xuống dưới mồ mới mong hoạn lộ, an toàn…
chỉ giây phút ngồi trước người bạn thuở trong sáng ngây thơ, sau biền biệt mỗi
đứa một phương, thắng thua nếm đủ quay về, men rượu ngấm vào ấm ức, nói ra cùng
nhau cũng chẳng phương hại nữa rồi mới dám “ghé tai”, “nói nhỏ”…
Bài thơ thành bữa tiệc
giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng,
lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật
ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông
cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi.
Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho
vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!
Bài thơ “BẠN QUAN” đã
ghi lại sống động cuộc sống hôm nay, của người Việt Nam mình./.
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
VỀ NGƯỜI "BẠN QUAN" THỨ 2 CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“Người bạn
quan thứ hai của nhà thơ trong bài "Bạn
Quan" là một quan chức đang tại vị, về quê mở tiệc tẩy trần, khách
mời là nhà thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì khác thằng bạn quan bị ngã ngựa,
bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ vạch trần bộ mặt thật của thằng
bạn cũ lâu ngày gặp lại:
Mày làm quan chắc kiếm
bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm
lãi
Mày là
thằng đã bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải thu hồi vốn, thu hồi xong
phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không từ thứ gì của dân.
Thêm nữa,
cái tài học và tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ gì nhau:
Mày học ngu nhưng thủ
đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù
thủ đoạn
Tưởng nói
trắng phớ ra như thế thì mình sẽ hả dạ, bớt đi đau buồn thua thiệt trong cõi
đời đen bạc. Còn nó, thằng bạn quan sẽ mất mặt vì nhục nhã. Nhưng cái hay ở bài
thơ là thằng bạn lại không thấy như thế. Mà y đợi:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Ơ hay, sao
chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại phải “ghé tai”, “nói thật nhỏ”
đến nỗi bạn phải “căng tai mới rõ”.
Phải chăng quen sống ở chốn quan trường, nơi mê cung bí hiểm đã thành động hình
trong y, lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi là sự thực. Nay
chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là “Quá
nửa đời mãi chửa hết ngu…” thì nỗi sợ ấy không còn nữa nên y mới có đủ dũng
khí để nói ra cái sự thực ấy:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó,
vịt giống nhau…”
“Quan càng lớn, chữ nhân
càng nhỏ…”
“La liếm quen rồi nào
biết bẩn nhơ!”
Đúng là y
nói rất thật nhưng cũng đúng y là một thằng học ngu vì y chưa đọc hết câu: “Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa
còn khó hơn nhiều”
Vẫn đang
đà giả tỉnh giả say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ: Khen các quan vì dân vì nước.
Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang đà được nói thật nên đáp lại cũng rất thật: Đời đã chó/ Quan trường càng chó
Tuy y nói
thật thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy trần hôm nay là tiệc của nhà
quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã “Ăn của dân không từ cái gì”, đã “La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ”. Vì
vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Bạn Quan là một
bài thơ hay, một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để
nói thật lòng mình, rất đúng với câu “Lời
say sưa mới là câu chân tình” (Trần Huyền Trân) cho ta thấy bộ mặt thật xấu
xa bỉ ổi của bọn quan trường trong xã hội hiện nay.”
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC BÀI THƠ “BẠN QUAN”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bạn thân
xa nhau lâu ngày gặp lại, người ta thường ôn lại những kỷ niệm vui buồn nhưng
trong sáng và đẹp đẽ về một thuở gắn bó bên nhau. Nhưng lại có một tình bạn
thân giữa hai người, mà thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn,
thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn nhờ có tiền mua được
chức tước lên quan mà kiếm bổng lộc bạc vàng, trở thành người gọi là “quyền
cao, giầu có”, thành ra cuộc gặp gỡ của họ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ
để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức trong lòng mỗi
kẻ. Những tưởng chỉ kẻ thua thiệt mới buồn, mới đau, mới mượn rượu để nói ra
lòng mình cho thỏa. Nào ngờ kẻ nhờ làm quan mà giầu có, nói có người phải nghe,
đe có người sợ, thế mà cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” để có cớ lôi tuột
những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, đang làm
đảo lộn hết đạo đức, nhân cách làm người, dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc
bạch, tâm sự của họ:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt
giống nhau
Mày than đời chỉ rặt những
thau
Quan càng lớn chữ nhân
càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn
trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào
biết bẩn nhơ.”
Một điều
hiện thực về thói đời khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai
oán vụn vặt mà không biết rằng chính cái đó đã phơi bày nhân cách giả dối của
chính mình. Một hiện thực nữa cũng làm ta quan tâm qua cuộc nói chuyện của họ
trong cuộc rượu, đó là dù làm quan có chức quyền, giàu có hay làm dân quèn ngu
ngơ, nghèo túng thì khi nhìn lại đời mình họ đều thấy nhục, chưa thấy xứng kiếp
người, tự mình thấy mình như kiếp vịt, kiếp chó… “Đời đã chó/ Quan trường càng chó”. Kẻ "quan tham" trong
bài thơ này, dù sao cũng vẫn còn chút nhân cách của một con người.
Những hiện
thực xã hội đang diễn ra trước mắt ta mà không thể giả điếc, giả mù bỏ qua được
đó là:
"Người hiền lành
luôn thua người bặm trợn
Chân thực ngủ vùi cho
xảo trá lên ngôi”
(Nguyễn
Thị Thanh Yến)
Tình trạng
đạo đức xã hội đã xuống cấp một cách nghiêm trọng, sự dối trá đã đến mức ngang
nhiên, tràn lan trong xã hội. Kẻ “bút nô” suốt đời chỉ viết "tụng ca"
thì lên ngôi, người dám nói thật cái xấu, cái ngu dốt, cái sai lầm... ra thì thường gặp rủi ro,
dễ bị quy chụp. Có lẽ chưa có bao giờ tình người lại đến mức tồi tệ như bây
giờ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã phải thốt lên:
“Tương lai ấy bây giờ
tôi sống dở
Quay mặt vào đâu cũng
phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã
lên ngôi
Tôi bước đi trên đất
nước nghẹn lời”
(“Bài thơ
Tháng Tám” – Bùi Minh Quốc)
Bài thơ “Bạn quan” là một cuộc rượu giữa hai
người bạn đãi nhau mà sao có ít vị ngọt bùi, nhiều cay đắng tình thân, tuy là
của riêng họ, nhưng lại làm người đọc động tâm, nghĩ suy về những năm tháng đời
người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm
tri kỷ:
“Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưởng vờ say.”
Thời đại
ta đang sống những hiện thực là vậy! Thật cảm phục tác giả Đặng Xuân Xuyến,
chắc Anh rất trăn trở cho tình người sẽ sao đây? Mà gửi tâm sự của lòng mình
vào thơ cho vơi đi nỗi ấm ức…
*.
Hải Dương, 13 tháng 5-2020
ĐỖ HUY TẤN
Địa chỉ: Bến Tằm,
Chí Linh, Hải Dương.
Facebook: Tấn Đỗ Huy
QUAN TRƯỜNG
- Tặng: Nguyễn Minh, bạn tôi -
Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại
Làm “quan to” ngã ngựa cũng chả hèn
Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.
Ừ, đời thế. Qua cầu thì hại “bạn”
Dấn quan trường sao mày chả chịu “khôn”
Đục kín dòng mày lại cố gượng trong
Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng
Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng
Cứ vui đi,
mặc thiên hạ vào tròng
Tiếc làm gì mấy thứ của phù du
Thiên trả Địa, đếch gì mày cay cú.
Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù
Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu
Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.
*
Hà Nội, chiều 03 tháng 04.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “QUAN TRƯỜNG”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thằng bạn trong Quan
Trường là một quan chức to vừa “ngã ngựa” vì bị bọn đồng liêu ganh ghét không cùng dòng chảy
với chúng:
Đục kín dòng mày lại
cố gượng trong
Chúng nó đập bởi mày
không chịu hỏng
Vì thế, nhà thơ an ủi bạn:
Nào, cứ uống, đếch
gì mày phải ngại
Làm “quan to” ngã ngựa
cũng chả hèn
Thiên hạ cười. Thây
kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn
để đời thôi khốn nạn.
Rồi chân tình khuyên bạn:
Ừ. Thế nhé. Lấy gia
đình làm trọng
Cứ vui đi, mặc thiên
hạ vào tròng
Tiếc làm gì mấy
thứ của phù du
Thiên trả Địa, đếch
gì mày cay cú.
Bài thơ cho ta thấy, tuy không
làm quan nhưng Đặng Xuân Xuyến biết rất rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí
hiểm ấy luôn có những đám mây đen âm mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh
toán nhau bất kì nổi lên gây ra không biết bao nhiêu thảm kịch.
Ở đấy đầy dẫy những kẻ mặt
dày vô sỉ, đầy quyền mưu quyền biến, đổi trắng thay đen, gian hùng,
giả nhân giả nghĩa…Vì thế nhà thơ gọi chốn quan trường là
nơi thiên hạ đú, thiên hạ cù và văng thẳng câu chửi vào cái thiên
hạ ấy:
Nào. Uống nhé!
Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say! Mặc
mẹ thiên hạ cù
Rồi mời rượu bạn để:
Tao với mày trận nữa
ngoắc cần câu
Cho trôi tuột trò
nhố nhăng thế sự.
Thái độ của nhà thơ là rất
thẳng thắn coi khinh chốn quan trường và cảm thông sâu sắc với bạn mình, tuy
làm quan nhưng vẫn còn chút thanh sạch và chưa bị tha hoá nên đã
bị cả một lũ quan trường, chúng nó đập.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN
- Thân tặng nhà thơ
Nguyễn Đăng Hành –
I.
Bạn rủ tôi về nhà nghe hát
Lôi chiếc CD cũ mèm
Chọn Những ánh sao đêm
Bật
Âm thanh phát ra cọt kẹt
Câu được câu mất
Bạn mơ màng
Lắc lư cùng “làn gió thơm hương...”
“Dòng sông mát xanh trải quanh phố phường” (1)
Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng
nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...
II.
Đêm.
Bạn dựng tôi dậy khoe tiền nhiều
Lôi từ gầm giường những tờ tiền đỏ như rưới máu
Tôi không hỏi tiền nhiều từ đâu
Bạn tránh nhắc từ đâu tiền nhiều
Cẩn thận
Vuốt vuốt những tờ tiền
Mắt lim dim
Bạn thả hồn vào khoảng không tối lịm
Quánh đêm
Rờn rợn
Khuôn mặt bạn
Vời vợi của thánh nhân
Ma lanh của ác quỷ
Tôi đã từng sợ ma.
………..
(01): Lời bài hát Những Ánh Sao Đêm
*.
Hà Nội, đêm 19 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN”
Lan man và chuyện thằng bạn viết theo trường phái siêu thực,
một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới
thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ
Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong thơ Đặng
Xuân Xuyến.
Khung cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”, thời gian là cả ngày và đêm,
được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí. Bao chùm bài thơ là không
khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...”
và “Tôi đã từng sợ ma.”... Phải chăng
chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà thơ - người dân luôn sống trong
tâm trạng nơm nớp âu lo hoảng loạn?
Sự giả dối, thói tham lam và bản
tính độc ác, đểu giả của “thằng bạn”, ám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc
trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời
gian chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc
ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với
“những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng
đã đủ để vạch trần đó là những đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ
hôi, nước mắt, thậm chí là máu, là tính mạng của những người dân lương thiện.
Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con
người mình nên tảng lờ, “tránh nhắc từ
đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh
đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ
hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây,
chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích
thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến - Đỗ Anh Tuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU
- Thân tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh
Chủ nhiệm Website Văn Đàn Việt -
I.
Tôi đặt cược đời mình
Bằng nụ cười nhếch mép
Bằng vòm ngực lép kẹp
Bằng căn phòng mốc meo ướt nhép
Bằng cót két tiếng giường ọp ẹp
Bằng cả tiếng ngủ mơ chóp chép...
Tôi kỳ vọng quá nhiều!
Tôi đặt cược quá nhiều!
Hình như...
II.
Đàn cừu
Ngoài kia...
Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp
Cả đàn chết khiếp
Lẩy bẩy
Chen đẩy
Vào chuồng
Ông chủ oang oang
Bà chủ nhẹ nhàng
Đàn cừu
Im lặng
Cúi xuống
Nhai...
Đống rơm trước mặt oải mùi.
*.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU”
Bài thơ Lan man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự
chú giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân
cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới
nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói
nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội
- đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình
như”... Câu “hình như...” nghe
chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ
“lạ” và mới.
Sang khổ 2, nhà thơ tiếp tục câu
chuyện của mình nhưng “lan man”
chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu/
Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp/ Cả đàn chết
khiếp/ Lẩy bẩy/ Chen đẩy/ Vào chuồng/ Ông chủ oang oang/ Bà chủ nhẹ nhàng/ Đàn
cừu/ Im lặng/ Cúi xuống/ Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để
diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị
trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm
cao.
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
NHỚ
- Tặng V yêu -
Đêm tỉnh giấc
Khát mắt cười chiều qua lăn trên chiếu
Căng người
Run rẩy cuộc yêu.
Đêm dài quá
Gió trườn qua khe cửa
Mưa rỉ rả
Tiếng cười rúc rích vọng từ xa...
*.
Hà Nội, 14 tháng 04 năm 2015
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“NHỚ” - BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đời người có muôn vàn nỗi nhớ... Nhưng có lẽ cồn cào
nhất, mãnh liệt nhất là nỗi nhớ “Yêu”! Nỗi nhớ ấy khao khát lắm lắm: “Khát yêu uống cạn bầu trời// Tắm mênh mông biển mà lời vẫn khô!” (Ái Nhân)
Nỗi nhớ “vợ” (đúng ra là người yêu, người tình) của thi
sĩ họ Đặng thì cũng cồn cào âm ỉ... và khát khao lắm: Khát mắt cười chiều qua lăn trên chiếu
Chiều qua? Có lẽ những chiều đã qua chăng?
Đặng thi sĩ nhớ những ngày hạnh phúc, những đêm thăng hoa
tột đỉnh đến “căng người” “run rẩy cuộc yêu”!
Đọc câu thơ này ta thấy khoai khoái... Anh khái quát về
cuộc ái ân của vợ chồng thật tinh tế... Mấy từ vẻn vẹn thôi mà ta như thấy được
hai kẻ YÊU “run rẩy” mơ màng... Các
giác quan như căng cứng, gồng lên dâng hiến. Ta như du miên ngây ngất!
Đột ngột tiếp sau là câu thơ: “Đêm dài quá/ Gió trườn qua khe cửa”. Làm ta chạnh lòng liên tưởng
những đêm không “vợ” của anh, những đêm tê tái “gió luồn”. Những “đêm thừa
năm canh” khắc khoải, cô đơn, đằng đẵng... “rỉ rả” mưa lòng!
Và câu kết: Tiếng cười rúc rich vọng từ xa.
Nghe như tiếng vọng về của một thời hạnh phúc. Như hạnh phúc xưa cứ mãi mãi xa dần. Càng làm cho nỗi nhớ như dài thêm, đằng đẵng nỗi niềm! Bài thơ chỉ bốn câu thôi mà cho ta biết bao điều suy
tưởng...
Nỗi khát khao nhớ “vợ”,
nhớ những “cuộc yêu” mây mưa ân ái
đến “căng người”.... Những phút giây thiêng liêng “run rẩy” mãi vẫn ùa về ăm ắp trong anh,
bất chấp cả mưa rơi “rỉ rả” “khe cửa” “gió luồn”... vẫn luôn hiện hữu hân hoan “rúc
rích” tiếng cười của những ngày hạnh phúc!
Bài thơ như kín đáo thổ lộ một thông điệp: “Người yêu ơi hãy về với anh!”, hãy về với những “cuộc yêu” “run
rẩy” ngập tràn hạnh phúc và “rúc rích
tiếng cười”!
Tôi như thấy như anh đang khóc. Những giọt nước mắt âm
thầm “rỉ rả” chảy mãi vào thơ!
*.
Hà Nội, 20 tháng 04 năm 2015
Ái Nhân BÙI CAO THẾ
Địa chỉ: 139 ngõ 399, Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội.
Email: buicaothethisi@gmail.com
NGƯỜI DƯNG
Đã mòn con mắt lá răm
Lời yêu còn ở ngã năm chửa về
Sập sùi sũng ướt triền đê
Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng
Hội làng thì đã lưng chừng
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về.
*.
Hà Nội, ngày 09 tháng 02.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“NGƯỜI DƯNG” - NHƯNG ĐÂU PHẢI LÀ NGƯỜI XA LẠ
Trong không khí của một quần thể con người đến các lễ
hội, chùa chiền, đền thờ để vụ lợi với hy vọng sẽ được buôn may, bán đắt, được
thăng quan tiến chức, trở nên giàu có..., bỗng nghe trong gió đưa lại một hơi
thở dài buồn trách:
Hội làng thì đã lưng
chừng
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về
Phải là hội làng với đúng nghĩa là sinh hoạt văn hoá dân
gian của cư dân địa phương ở một quy mô nhỏ vào tháng Giêng đến hội, người dân
nô nức tham dự nhưng rất đẹp chữ lễ chứ không phải là lễ hội với những cảnh
chen lấn, giành giật, giẫm đạp lên nhau có cả máu người và máu các con vật như
trâu bị treo cổ cho đến chết, lợn bị chém giữa sân đình…, ta mới có thể nghe
được hơi thở nhẹ buồn trách đó.
Ấy là hơi thở nhẹ của một cô gái quê trong bài thơ NGƯỜI
DƯNG của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Và nghe xong tiếng thở ấy, ta như nhìn thấy
cô gái đang trong đám hội nhưng không đứng trong đám đông dân làng mà đứng lẻ
ra mé ngoài, ngóng mắt về phía đường xa mong đợi và mong đợi đến độ:
Đã mòn con mắt lá
răm
Một cô gái quê xinh đẹp đúng như ca dao từng ca
tụng: “Đàn bà con mắt lá răm/ Lông
mày lá liễu đáng trăm quan tiền” mà thời nay dẫu có đốt cả trăm bó
đuốc soi vào cả ngàn tiệm spa làm đẹp cho phụ nữ cũng không dễ gì tìm được một
người.
Đôi mắt đẹp quý hiếm ấy “đã mòn” vì sao? Chỉ là vì:
Lời yêu còn ở ngã năm
chửa về
Thật tội nghiệp! Bởi lẽ, thói thường, khi gặp ngã ba
đường người ta đã phải phân vân tìm cách nên lựa chọn ngả nào? Vậy mà lời yêu
con mắt lá răm ngóng đợi lại đang ở ngã năm, chỗ con đường đi ra năm ngả; có
thể ngã năm ấy không còn xa hội làng lắm nhưng biết đi ngả nào cho đúng hướng
đây? Chính vì thế, đâu chỉ mình cái lời yêu đó phải phân vân tìm lối mà cả cô
gái quê cũng đang bồn chồn lo lắng, liệu lời yêu có chọn đúng ngã rẽ để về hay
sẽ đi lạc lối để uổng phí một hội làng, phí hoài một ngày xuân tươi đẹp. Vì thế
con mắt lá răm không chỉ đã mòn vì mong đợi mà còn:
Sập sùi sũng ướt triền
đê
Người đời thường dùng từ hạt lệ để nói về nước mắt. Thiên
tài Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì tài hoa phong phú hơn nhiều: hạt châu, giọt
ngọc, giọt tương, giọt riêng, mạch tương. Và để diễn tả mức độ khóc, người đời
thường ví von khóc như mưa:
Nhớ ai em những khóc
thầm
Hai hàng nước mắt đầm
đầm như mưa
Hay ví cụ thể hơn “như mưa tháng mười”:
Anh về em chẳng dám đưa,
Hai hàng nước mắt như
mưa tháng mười.
Cũng có khi nói “khóc
đỏ lòm con ngươi”:
Phù sa nước đục khó dòm,
Nhớ anh em khóc đỏ lòm
con ngươi
Làn thu thủy của nàng Kiều “nghiêng nước nghiêng thành” đã đẹp lại đẹp hơn lên khi
khóc bởi những từ ngữ như đầm đầm châu sa, châu sa vắn dài, giọt ngọc như chan:
Lòng đâu sẵn nỗi thương
tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm
đầm châu sa./
Lại cùng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn dứt nối châu sa
vắn dài".
Nàng càng giọt ngọc như
chan,
Nỗi lòng luống những bàn
hoàn niềm tây"/.
Trong NGƯỜI DƯNG của Đặng Xuân Xuyến thì nước mắt của con mắt lá răm được diễn tả mộc mạc như
ta đã thấy:
Sập sùi sũng ướt triền
đê
Một hình ảnh rất sáng tạo của nhà thơ hiện đại nhưng vẫn
giữ được chất quê mùa bình dị rất gần gũi với người dân đồng ruộng mà không kém
phần sâu sắc.
Triền đê là dải đất thoai thoải của con đê ở hai bên bờ
sông. Khi mưa, nước thường từ trên trời rơi xuống mặt đê rồi trôi theo triền đê
xuống tràn vào bờ bãi hay chảy hòa vào nước dòng sông cùng tuôn ra biển cả.
Triền đê đâu phải là chỗ trũng để nước mưa dễ bề đọng lại. Vậy mà nước mắt của
cô gái ướt sũng triền đê chứng tỏ triền đê đã bị thấm nhiều quá, lâu quá bởi
những dòng lệ của con mắt lá răm.
Vậy vì sao con mắt lá răm, con mắt biết nói, biết cười mà
ai trót nhìn vào sẽ đắm say, quyến luyến chẳng muốn rờì ấy đã mòn vì ngóng đợi lại khóc đến ướt sũng cả triền đê? Đây là câu thơ cắt
nghĩa nguyên do nông nỗi ấy:
Khạo khờ mãi nhuộm câu thề
người dưng
Chỉ là một câu thề của một người dưng nhưng cô gái đã
khạo khờ nhuộm nó vào lòng và thời gian đã trôi qua nhưng không hề phai nhạt.
Người dưng hay người dưng nước lã, chỉ người không có máu
mủ ruột rà thân tộc nội ngoại gì với mình mà nó tự nhiên như nước mưa, nước
giếng. Nhưng sao cái người dưng kia lại nhuộm được câu thề trong lòng cô gái?
Chỉ có thể nói đó là một người dưng quá đặc biệt, nếu không nói là người đã
biết nhau từ kiếp trước thì ít nhất cũng là người đã biết nhau từ hội làng năm
cũ. Cái người dưng quá đặc biệt ấy đã lọt vào “con mắt lá răm”, đã cho cô gái lời yêu, mách bảo trái tim cô
gái một điều gì đó rất linh diệu khiến nỗi lòng cô hằng nhớ và đời sống tâm hồn
tình cảm của cô đã bị xao động:
Cơm ăn nửa chén lưng
lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng
thế này?
Và vì thế, hội làng năm nay, cô mới phải hoài công ngóng
đợi lời yêu và cái người dưng kia.
Qúy con mắt lá răm đáng trăm quan tiền của cô gái quê
trong thơ Đặng xuân Xuyến, tôi bỗng nhớ tới cô gái trong khung cửi nổi
tiếng từ hơn 80 năm trước trong thơ Nguyễn Bính. Cũng hội chèo làng Đặng ở
thôn Đoài. Một cô gái nông thôn trẻ trung xinh đẹp đội mưa bụi đi hội nhưng
không phải để xem mà chính là để tìm gặp người yêu:
Thôn Ðoài vào đám hát
thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết
xem …
Và cũng thật tội nghiệp cho cô, tìm anh suốt một đêm thâu
để rồi:
Chờ mãi anh sang anh chả
sang
Thế mà hôm nọ hát bên
làng
Năm tao bảy tuyết anh hò
hẹn
Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ
nhàng!
Thương con mắt lá
răm đã khóc ướt sũng triền đê,
tôi lại nhớ đến người thiếu phụ mòn mỏi chờ bóng tình quân bài thơ Mòn Mỏi của Thanh Tịnh ngang thời
Nguyễn Bính. Bài thơ được phóng tác theo truyện "Barbe bleue" của nhà
văn Pháp Charles Perrault chìm ngập nỗi buồn. Người thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên
trong bức rèm, dệt vải. Còn em gái nàng thì ngồi ở gian ngoài, ngóng ra ngoài
đường, chờ đợi. Ngôi nhà bé nhỏ nằm dưới thung lũng cũng cô đơn lặng lẽ như hai
chị em họ. Sau bao lần tưởng như trông thấy tình quân với con ngựa hồng đang
đến gần cùng với tiếng gọi của chàng trong tiếng ngựa hí, tiếng nhạc ngựa vang
reo, người thiếu phụ nhờ em gái nhẹ cuốn bức rèm tơ lên xem có phải đúng thế
không để rồi chỉ nhận được những câu trả lời cuả em gái: khi thì "Chị ơi em thấy một cây liễu buồn",
khi thì: “Bên rừng ngọn gió rung cây”,
khi thì “Sóng chiều đùa chiếc
thuyền nan” và "Chị ơi con
nhạn lạc bầy kêu sương" hay "Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông".
Nhưng khi bất chợt nghe em gái nói như reo lên:
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruổi dặm
hồng xa xa
Thì nàng thiếu phụ bỗng lo lắng bảo em gái:
Nhẹ nhàng em sẽ buông
rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng
ngựa chìm.
Và rồi kết cục:
Ngựa hồng đã đến bên
hiên
Chị ơi, trên ngựa chiếc
yên vắng người
Sự bất ngờ của hình ảnh chiếc yên ngựa vắng người đã
khiến bao người yêu thơ muốn vỡ tim vì buồn thảm
Tôi vô cùng yêu thích hai bài thơ diễm tình: MƯA XUÂN của
Nguyễn Bính và MÒN MỎI của Thanh Tịnh, rất quý mến tấm tình của cô gái trong
khung cửi tìm người yêu, rất cảm thương người thiếu phụ xinh đẹp đã mòn mỏi
mong đợi tình quân từng giây từng phút để rồi tan nát cõi lòng trong tuyệt
vọng. Nhưng tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Đặng Xuân Xuyến
phải cam phận như hai số phận ấy. Theo kinh nghiệm người đời: Người có đôi mắt
lá răm thường sắc sảo đa tình và rất thủy chung nhưng cũng luôn nhuốm chút u
buồn, sâu lắng. Nhưng tôi không muốn con mắt lá răm ấy trong thơ Đặng Xuân
Xuyến sẽ phải buồn tủi tê tái như cô gái trong khung cửi “Để cả mùa Xuân cũng nhỡ nhàng”, lại càng
không muốn con mắt lá răm ấy phải vận vào người nỗi mòn mỏi tuyệt vọng như
người thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh.
Bài thơ NGƯỜI DƯNG của Đặng Xuân Xuyến rất ngắn, hai khổ
nhưng cả thảy chỉ có 6 câu mà trong đó có tới 5 câu thơ buồn. Chỉ còn lại một
câu:
Hội làng thì đã lưng
chừng
Câu thơ tả thời gian, nhưng cũng diễn tả tâm trạng “sốt
ruột”, đã xuất hiện sự “buồn nản” trong chờ đợi “người dưng” của “con
mắt lá dăm”. Tuy không buồn như 5 câu thơ kia, nhưng câu thơ cũng gieo vào
lòng người tâm trạng se buồn.
Hội làng thì đã lưng chừng, là khoảng thời gian đã đi qua
những màn diễn chính của lễ hội và đang nhích dần về nửa sau, về những màn
cuối, để khép lại hội làng, nghĩa là vẫn còn thì giờ để ngóng đợi “người
dưng” nhưng hy vọng đã không còn nhiều, ngày một thu hẹp, rút ngắn.
Bài thơ khép lại với tiếng thở dài, tê tái:
Người dưng ơi hỡi...Người dưng chả
về.
Tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Đặng
Xuân Xuyến phải cam phận như vậy. Vì thế, nghĩ cho cô gái, tôi nghe như trong
làn gió từ hội làng tiếng ai đó đang hát: Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi /Anh ơi, em vẫn đợi…
Cô gái con mắt lá răm ơi, cô có nghe thấy tiếng hát đó
không? Nếu nghe được thì xin cô hãy cùng tôi tin rằng, sau tiếng hát ấy,
lời yêu của cô ở ngã năm sẽ tìm ra lối rẽ đúng và kịp về với cô, người dưng
chưa về sẽ kịp đến bên cô. Hãy vững tin đi, “con mắt lá răm” xinh đẹp đa tình nhưng chung thủy nhé! Bởi gọi cái
người gọi là người dưng đó đâu phải là người xa lạ, nếu không nói là đã gặp
nhau trong tiền kiếp thì cũng đã biết mặt nhau, đã nghe lời yêu của nhau, đã
nhận câu thề với nhau và đã nhuộm câu thề đó trong trái tim từ buổi còn khạo
khờ. Nhất định người dưng ấy sẽ về hội làng để “lên ngôi” thành người nghĩa,
người tình của cô và sẽ cùng cô “đơm hoa kết trái” thành hạnh phúc lứa đôi!
VĨ THANH:
Khép lại bài thơ Người
Dưng, không hiểu sao tôi lại có cảm giác, hơi thở dài của cô gái mắt lá răm
cũng chính là hơi thở dài của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Hình như nhà thơ cũng
đang trong Hội làng và cũng đang để trái tim se buồn, bâng khuâng ngóng đợi một
lời yêu của một người dưng nhưng cũng không phải là một người xa lạ mà là một
người đặc biệt như đã cùng nhà thơ biết nhau trong tiền kiếp. Nếu đúng vậy, tôi
chúc nhà thơ sẽ mau chóng đón nhận lời yêu ấy, có thể không phải là đang ở ngã
năm mà ở một ngã bẩy sẽ về.
*
Sài Gòn, ngày 18/02/2017
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
MƠ TRĂNG
- Thương
tặng T.T.Q.T -
Em rướn mình hà hít nụ hôn anh
Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội
Môi khóa môi mà sao xa vời vợi
Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.
Anh vùi mình giấu vội lệ rơi
Tim rời rã giữ cõi hồn trống vắng
Câu yêu đương nửa chừng nghẹn đắng
Đêm rã rời lẩn khuất ánh trăng thanh.
Anh ngại ngùng khi em chợt hỏi anh
“Anh hạnh phúc hay chỉ lời chót lưỡi”
Biết nói sao để không thành giả dối
Rưng rức buồn...
Day dứt giấc mơ trăng.
*.
Hà Nội, đêm 02 tháng 09 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“MƠ TRĂNG” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thật tình tôi rất yêu thơ Đặng Xuân Xuyến vì qua những bài thơ tôi
đọc được, tôi khám phá ở anh một tâm hồn đầy ắp thơ. Người thơ không
phải người sáng tác mới là thơ, lại càng không phải chỉ người sáng
tác hay mới là thơ. Người thơ là người có tâm hồn nhạy bén trong cảm
thụ những điều mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã viết: “Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói đến mộng là nói đến
tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu Người
là cao cả, vô biên và vô lượng: xung quanh Người là mơn trớn với yêu
đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến làm bằng êm dịu, làm bằng thanh
bai…” Thơ Đặng Xuân Xuyến chất chứa thật và đầy sự rung động của
Người đi giữa nguồn trong trẻo, cho nên có đôi lúc ý, từ “mới lạ”, gây
tâm lý “phản cảm” cho một ít người nhưng chính những ý, từ đó phát
tiết được những điều bí ẩn của “nguồn
trong trẻo” “vô biên và vô lượng”
mà một tâm hồn nhạy bén phải dùng nó như dùng một tiếng đàn phá
cách để truyền đi một thứ âm thanh lạ cho đời. Ví như bài thơ “Mơ
Trăng”, ta tìm thấy ở đây một cơn mơ phi lý trong giây phút ái ân.
Đọc vế thơ đầu ta
thấy hụt hẫng ngay, hụt hẫng vì cái giây phút ái ân đó quá cuồng
nhiệt, quá say đắm, nó lại làm cho đau tâm hồn, làm cho tê tái con
tim:
Em rướn mình hà hít
nụ hôn anh
Tê tái lắm. Cuộc
tình mình thật tội
Môi khóa môi mà sao xa
vời vợi
Đêm cuống cuống khỏa
lấp nỗi chơi vơi
Nếu người không có tâm hồn thơ thì đây là giây phút của xác
thịt, của biết bao cử chỉ cuống cuồng đắm đuối. Ngược lại, người
thơ dầu trong dục tình vẫn hưởng thụ nó bằng con tim, bằng sự trong
trẻo, sự quyến luyến sự thanh bai, cho nên Đặng Xuân Xuyến phải đau
khổ vì con tim anh rung động nghịch với những điều thể xác đang làm.
Không cần biết nguyên nhân của sự nghịch lý, chỉ cần biết sự nghịch
lý phơi bày hai vẻ đẹp trong vế thơ này: vẻ đẹp của đam mê dục vọng và
vẻ đẹp của đau khổ tâm hồn. Hai vẻ đẹp như hai viên kim cương lóng lánh,
một viên sáng u trầm và một viên sáng rực rỡ. Đọc thơ này nếu thớ
thịt, đường máu trong ta không căn thẳng thì ta khó thấy vẻ đẹp của
sự đam mê dục vọng. Đọc thơ này nếu con tim ta không co thắt lại thì ta
cũng khó thấy sự đau thương trong tình tuyệt vọng. Người thơ là người
biết nó có trong cùng giờ cùng phút.
Bước qua vế thơ thứ nhì ta thấy đang hôn nhau mà lại nhớ đến
trăng và cay đắng về trăng:
Anh vùi mình giấu
vội lệ rơi
Tim rời rã giữ cõi
hồn trống vắng
Câu yêu đương nửa
chừng nghẹn đắng
Đêm rã rời lẩn khuất
ánh trăng thanh
Bây giờ có hai Đặng Xuân Xuyến, một đang vùi trong hương hoa của
tình yêu và một đang vùi trong trủng trủng khắc khỏai và đắng cay.
Lúc này nhà thơ đương yêu hay là không yêu? - Đâu biết được. Xem thơ
tưởng rằng không yêu. Yêu là đau khổ. Nhà thơ đang đau khổ, nghĩa là
nhà thơ đang yêu. Chỉ biết nhà thơ đang ôm một khối tình, khối tình
nóng cháy như hỏa diệm sơn mà cũng rét cóng như băng giá miền cực
bắc. “Trăng thanh” được nhắc đến
trong vế thơ này, trong giờ phút mà đúng ra không có cả đất trời.
Trăng là hiện thân của thơ mộng, là vị thần của những mối tình hạnh
phúc. Trăng thanh nếu còn một nửa là dấu hiệu của tình chia ly, tình
xa cách và trăng thanh biến mất thì tình hầu như đã chết. Hàn Mạc
Tử nói: “Cả miệng ta trăng là trăng/
Cả lòng ta vô số gái hồng nhan” để thể hiện thứ tình
yêu cuồng nộ:“Bây giờ tôi dại tôi
điên/ Chấp tay tôi lạy cả miền không gian” ngự trị trong tâm hồn thi
sĩ. Đặng Xuân Xuyến cũng cần một thứ tình yêu đó xảy ra trong lòng
mình nhưng không có. Đặng Xuân Xuyến cũng chỉ là con tằm muốn ăn ngấu
nghiến lá dâu tình yêu đặc biệt để nhả ra tơ óng ánh cho đời nhưng
không có. Vì vậy anh nhớ đến trăng, thứ trăng mà Hàn Mạc Tử ngậm vô
số trong miệng mình. Anh đã nhớ trăng ấy trong giờ phút anh ân ái với
người mà qua thơ ta biết có nhiều uẩn khúc trong tình. Biết đâu nỗi
đau của Đặng Xuân Xuyến cũng có thể giống như nỗi đau của Hàn Mạc
Tử với Mộng Cầm để ông hận thù Phan Thiết là nơi ông “chôn hận ngàn thu”.
Vế thơ này có “lệ rơi, rời rã,
rã rời, nghẹn đắng…” là những từ của ca cổ, tuy thế tác giả
buộc phải dùng nó để trút hết uẩn khúc trong lòng, nhờ đó tiếng
thơ mang nỗi buồn hiện tại nhưng có cái âm hưởng đầy tính lãng mạn
của những ngày đầu Thơ Mới.
Qua vế thơ thứ ba tác giả thổ lộ tâm trạng chính của mình: Day dứt giấc mơ trăng:
Anh ngại ngùng khi em
chợt hỏi anh
“Anh hạnh phúc hay
chĩ là chót lưỡi”
Biết nói sao để không
thành giả dối
Rưng rức buồn…
Day dứt giấc mơ trăng.
Ngại ngùng, ngần ngừ hay phân vân là tính cách của người không
biết nói dối. Ở đây nhà thơ chẳng phải muốn tìm lời nói dối mà
chỉ muốn tìm lời diễn đạt cho đúng ý mình. Tình yêu hiện có trong
lòng thi sĩ hay không có trong lòng thi sĩ ta đâu biết được. Ta chỉ
biết nhà thơ hụt hẫng đang khi ân ái vì nhà thơ mơ ước một giấc mơ
trăng mà trăng đã lẩn khuất để cho đêm rã rời, để cho cõi hồn trống
vắng ngay cái lúc đang hôn nhau. Phải chăng nhà thơ cần một tình yêu
rất lớn? Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình
thường không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ
luôn mơ mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc
đời. Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng
thơ Đặng Xuân Xuyến quả đúng như vậy. Nhà thơ có lẽ cũng ngậm đầy
miệng trăng nhưng Hàn Mạc Tử thì:
“Cả miệng ta trăng là
trăng
Cả lòng ta vô số gái
hồng nhan
Ta nhả ra đây một
nàng
Cho mây lặng lờ, cho
nước ngất ngây
Cho vì sao rụng xuống
mái rừng say”
nghĩa là có lúc thi sĩ ngây ngất cùng nàng trăng trong miệng
mình nhả ra, còn Đặng Xuân Xuyến thì trăng chỉ nằm trong “day dứt giấc mơ”.
Mơ trăng của hàng vạn thi sĩ là một cơn mơ thú vị. Mơ trăng
của Đặng Xuân Xuyến là một cơn mơ xót xa rưng rức. Chỉ thế cũng đủ
chứng minh bài thơ là độc đáo. Khen nhiều cũng chẳng làm cho bài thơ
hay thêm nữa./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
SAY YÊU
- Với T.L.A -
Yêu thương nhé. Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian
Uống nữa đi. Đây rượu ngọt. Môi mềm
Đêm lạnh lắm đừng để ta lẻ bạn.
Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ
Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần
Đây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm
E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.
Thì ta biết thuyền em chưa bến đậu
Giấu mơ hoang vật vã đợi phong cuồng
Ta nhốt mình đằng đẵng mấy mùa ngâu
Nén lơi lả loạn điên nơi cõi mộng.
Ừ thì rượu. Ừ thì thơ. Ừ mộng đẹp
Ừ thì say cho hỉ hả phong trần
Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.
Yêu thương nhé.
Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...
*.
Hà Nội, đêm 11 tháng 04 năm
2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“SAY YÊU” - TÌNH SAY MỘT ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Say Yêu là cuộc rượu của nhà thơ với người tình. Một
cuộc rượu đã đến hồi rượu ngọt, môi mềm và “Xem
trong âu yếm có chiều lả lơi”:
Nào nâng chén cho sầu
sầu rũ bỏ
Trút áo xiêm cho đêm bớt
ngại ngần
Đây rượu nồng,
men ủ đã nhiều năm
E ngại thế... Làm sao ta
chẳng giận
Và rồi mặc dù đêm lạnh lắm nhưng đã say yêu, đã trút áo
xiêm rồi thì cái gì đến sẽ phài đến:
Đêm phập phồng, ngực nõn
hứng trăng non
Môi đón lưỡi uống hương
tình bất tận.
Trong thi ca Việt Nam, ta thấy nhiều bài thơ hay
về cuộc rượu của nhà thơ với người đẹp như trong thơ Lưu Trọng
Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu... Nhưng hầu hết những người đẹp đó đều là gái
giang hồ, gái nhảy hay kỹ nữ:
Say đi em, say đi
em
Say cho lơi lả ánh
đèn
Cho cung bậc
ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa, và quên,
quên hết...
(Vũ Hoàng Chương - Say đi em)
Khách ngồi lại
cùng em! Đây gối lả,
Tay em đây, mời khách
ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của
em đây,
Em cung kính đặt dưới
chân hoàng tử.
(Xuân Diệu - Lời kỹ nữ)
Người đẹp trong Say Yêu của Đặng Xuân Xuyến không
phải là gái giang hồ, gái nhẩy hay kỹ nữ nhưng tiếc thay cũng chỉ là
người con gái chẳng cần thề non hẹn biển, nguyện ước trăm năm “như chim chắp cánh như cây liền
cành” mà chỉ say yêu một đêm, một lần:
Yêu thương nhé.
Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa
nhân gian...
Có thể nói nhờ Rượu mà nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến đã cảm khái nên chùm Thơ Về Rượu khá hay và độc đáo.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
ĐỜI NGHỆ SĨ
(Tặng MC Lê Thanh Bạch)
Nước mắt ngược vào tim đắng chát?
Đời “con hát”
Kiếp tằm rút ruột nhả tơ
Mua vui mấy nhịp trống chèo
Ngẩn ngơ mây trôi bèo dạt...
*.
Hà Nội, 24 tháng 10. 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“ĐỜI NGHỆ SĨ” - NỖI CẢM THƯƠNG VỚI NGƯỜI NGHỆ SĨ
ĐỜI NGHỆ SỸ là bài thơ rất ngắn, của Đặng Xuân
Xuyến. Bài thơ chỉ “vỏn vẹn” với 5 dòng thơ thôi nhưng đã khái quát được nỗi
đau đời về thân phận của người nghệ sỹ:
Nước mắt ngược vào tim
đắng chát
Đời “con hát”
Kiếp tằm rút ruột nhả tơ
Mua vui mấy nhịp trống
chèo
Ngẩn ngơ mây trôi bèo
dạt...
Đọc xong thấy buồn, giật mình thấy đời ai cũng vậy.
Cái kiếp con tằm, nhả tơ làm đẹp đời cho đến tận lúc chết! Mà chết rồi cũng
nào có được yên, lại phải bị đem luộc chín để lấy ra những sợi vàng óng ánh mà
dệt thành gấm vóc dâng đời...
“Nước mắt
ngược vào tim đắng chát”, cách diễn tả không mới
nhưng cần để diễn tả nội tâm “gan ruột” của người nghệ sĩ.
CON HÁT - một cách gọi xưa cũ với người nghệ sỹ,
nhưng chả khác mấy bây giờ, cho dù ánh hào quang chói lọi của sân khấu,
cho dù những tràng vỗ tay ra rả, cho dù mức cat- xê khủng... nhưng người nghệ
sỹ chỉ cần sơ xảy chút thôi sẽ bị khán giả quay lưng, khinh khi là con hát, là
sướng ca vô loài ....
Giật mình nhận ra: ai cũng vậy! Một kiếp mưu sinh
nhưng với người nghệ sỹ thì phải sắm nhiều vai lắm. Khi đèn sân khấu vụt tắt
thì người nghệ sỹ không biết mình là ai nữa, sống thật với vai nào, bài hát
nào?
Mua vui mấy nhịp trống
chèo
Ngẩn ngơ mây trôi bèo
dạt...
Thật buồn! Thật chua xót cho kiếp đời của người
nghệ sĩ vô định như “mây trôi bèo dạt”...
Chỉ là tiếng thở dài thôi mà sao nghe thấm lệ?
Hai câu thơ cuối đã làm nên bài thơ hay, bắt buộc
người đọc phải nghĩ rộng ra: thân phận của kiếp người!
Niềm vui quá ngắn ngủi, kiếp sống con tằm lại dài
lê thê, thậm chí là vô định. Đời nghệ sỹ hay đời
người đây?
Ta chua xót nhận ra thân phận của kiếp người để
hoạch định cho mình một cách sống.
*.
Thành Nam, 25 tháng 10.2016
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
ĐỜI KHÁT
- Thân tặng nghệ sĩ Võ Hoài
.
Này thì khát!
Uống cho đời đỡ khát
Rượu tình đời men ủ nhiều năm
Khát chất chồng
dồn nén
tháng năm
Ta đốt cạn cái đong đời cay đắng
Uống!
Thì uống!
Cho lì khoảng lặng
Cho lòng ta chạm được tới lòng người
Cho u buồn phiêu bạt tận biển khơi
Cho Nhật Nguyệt thẹn lòng mà hửng nắng.
Uống!
Thì uống!
Dốc cạn lòng cùng uống
Khát khao ơi hãy tan chảy tận cùng
Thế gian này dẫu sấp ngửa trắng đen
Ta như bạn sống một đời không thẹn.
Uống!
Thì uống!
Ngán chi mà không uống!
Rượu tri âm thêm vững mạnh bước đường!
*.
Hà Nội, ngày 30 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“ĐỜI KHÁT” VÀ TÌNH NGƯỜI NGHỆ SĨ
Đời Khát với lời đề tặng
nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà thơ và một
nghệ sĩ. Hiển nhiên rượu phải ngon và quý: Rượu tình đời men ủ nhiều năm. Họ khát gặp nhau và
khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một trận càn khôn túy lúy:
Này thì khát!
Uống cho đời
đỡ khát
Rượu tình đời
men ủ nhiều năm
Khát chất chồng
dồn nén
tháng năm
Ta đốt cạn cái đong đời
cay đắng
Họ liên tiếp chuốc rượu mời
giục nhau trong ba khổ thơ liên tiếp khổ nào cũng mở đầu
bằng hai câu:
Uống!
Thì uống!...
Uống để cho hết u buồn, cho
Nhật Nguyệt hửng nắng, cho lòng ta và lòng bạn không hổ thẹn giữa một thế gian
“sấp ngửa trắng đen”, và để: Rượu tri âm thêm vững mạnh bước đường! Đúng là thi nhân, nghệ sĩ say
thì chữ nghĩa tràn chiếu rượu
Thân phận nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến thì bạn đọc đều đã biết, chỉ xin vài nét về tài tử Võ Hoài
Nam để mọi người hiểu thêm về kèo rượu của đôi bạn.
Bố mẹ Võ Hoài Nam ly hôn
khi anh mới lên hai, kể từ đó, Võ Hoài Nam sống như một đứa
trẻ không có gia đình. "Đầu
đường, xó chợ đã dạy tôi nên người”. Đấy là lời dũng cảm anh
tự nói ra. Trở thành diễn viên chính trong series phim "Cảnh
sát hình sự", Võ Hoài Nam được coi là một trong những tài
tử hàng đầu của điện ảnh phía Bắc. Khi đang ở đỉnh cao của
sự nghiệp, anh bất ngờ rời xa màn ảnh cùng vợ mở quán
ăn để có đủ cơm áo chăm lo cho đàn con 4 đứa..
Võ Hoài Nam tâm sự: "Đối với tôi, tiền không phải là tất cả, tiền
không đánh đổi được tình nghĩa, hạnh phúc gia đình. Nghĩ vậy nên tôi dừng lại,
không dấn thêm một bước nữa". Thật không hổ thẹn khi không ham tiền và ham
sự nổi danh dưới ánh đèn sân khấu.
Đúng như câu thơ Đặng Xuân
Xuyến:
Ta như bạn sống một
đời không thẹn
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
VIẾT CHO NGÀY VALENTINE
Có lẽ xưa đường tu vụng dại
Vung vãi tình giờ nghẹn đắng chữ yêu
Ta nhìn người mà rậm rật bờ môi
Cứ da diết vòng tay tình chồng vợ.
Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng
Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường
Ta rụt rè ngóng gió muôn phương
Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng...
Tình yêu ơi sao xa xỉ thế
Đến bao giờ thoát khỏi bến mê
Đến bao giờ hết rầu rĩ tái tê
Lại hối hả dệt mộng lành ân ái...
Ừ, đừng nói đạo người phải trái
Tình bán mua soi kỹ làm gì
Chót nhỡ nhàng phận hẩm duyên thiu
Thì cũng cố vê tròn chữ nghĩa.
Thôi, ta mặc lời người độc địa
Cố nín câm giữ biển lặng sóng ngầm
Ta gồng mình giữ chặt vẻ trầm ngâm
Chầm chậm bước giữ nhịp đời thật chậm.
San niềm vui gom vội niềm cay đắng
Ta cuộn mình sống hết kiếp nhân sinh.
*.
Hà Nội, đêm, 14 tháng 02 năm 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐÔI LỜI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “VIẾT CHO NGÀY VALENTINE”
Đọc bài thơ “Viết
cho ngày Valentin” của Đặng Xuân Xuyến lòng ai không khỏi ngậm ngùi, không thấy nuối tiếc cho
những cuộc đời một đời lỡ dở trong tình yêu đôi lứa.
Thứ tài sản quý nhất ở đời mà trời đất đã ban cho mỗi người sinh ra trên mặt đất này, ta đã được cầm
trong tay nhưng vô tình để tuột rơi tan vỡ, giờ nghĩ lại
chỉ còn biết đổ cho phận số:
Có lẽ xưa đường tu vụng
dại
Vung vãi tình, giờ nghẹn
đắng chữ yêu.
Ngày Valentin, ngoài đường nườm nượp những lứa đôi
chồng chồng, vợ vợ, nhìn những bó hoa
tình yêu người ta trao tặng cho nhau mới thèm khát biết bao những cử chỉ hạnh phúc, những vòng tay êm ái mà
ta không biết nâng niu gìn giữ khi tuổi trẻ còn
phơi phới cùng bao mơ ước ngông cuồng tiền bạc, lợi danh ta đã nhầm lẫn tưởng nó giúp ta dựng nên được
những lâu đài hạnh phúc vững bền, khi nhận ra
điều này thì đã muộn:
Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt
niềm yêu đắng
Chăn gối đơn rệu rạo đêm
trường
Ta dụt dè ngóng gió muôn
phương
Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay
đắng…
Có lẽ, đến cả những anh hùng vĩ nhân từng dọc ngang
trời đất, từng chiến thắng hết thảy mọi gian
nguy khi rơi vào cảnh cô đơn này cũng trở nên bất lực.
Ta dụt dè ngóng gió muôn
phương
Chỉ còn đợi giữa muôn điều may rủi nơi số phận mình
đem lại. Lúc này mới tỉnh thức về lẽ sống
ở đời, có thể giành giật, mua bán chiếm đoạt được mọi thứ có ở trên đời, riêng với tình yêu thì không có
thể mua bán chiếm đoạt. Nó chỉ đến cùng và ở mãi
cùng ta bằng những yêu thương giao cảm chân thành. Một ánh mắt gửi trao, một lời yêu an ủi có khi nặng
hơn vàng cân, bạc nén. Ta hãy nghe câu hát của
những kẻ áo rách vá vai mà vẫn hạnh phúc biết bao:
Chồng em áo rách em
thương
Chồng người áo gấm sông
hương mặc người
Nhất thời, cuộc sống nơi này, chỗ kia kẻ nọ, đang
bị cuốn vào vòng xoáy mua bán đổi trao hết
thảy tính bằng bạc tiền nhưng rồi cái giá để có được tình yêu sẽ làm họ tỉnh lại. Chẳng thế sao Đặng Xuân
Xuyến lại thốt nên lời:
Tình yêu ơi sao xa xỉ
thế!
Nó đắt lắm không tính được bằng tiền, không chinh
phục được bằng tước quyền danh vọng, chỉ có thể đến được với nhau, ở mãi trong
nhau khi cùng một nhịp trái tim mãi đập chân thành. Tác giả vừa thức ngộ cho
mình vừa như nhắc nhủ người khác:
Đến bao giờ thoát khỏi
bến mê
… Lại hối hả dệt mộng
lành êm ái…
Thức ngộ được cuộc sống này, người tốt kẻ xấu, tình
thắm đượm, nghĩa phôi pha đang xảy ra ở
khắp mọi nơi, đếm xỉa hết thảy chẳng để làm gì:
Ừ, đừng nói đạo người
phải trái
Tình bán mua soi kỹ làm
gì
Chót nhỡ nhàng phận hẩm
duyên thiu
Thì cũng cố vê tròn chữ
nghĩa
Người tốt không phải bao giờ cũng gặp được người
tốt để thủy chung gắn bó. Đau đến vậy, nhưng là người cầm bút làm thơ thường
khác với người đời là không vì người phụ ta mà ta phụ lại người, tự nhận lấy
không may “phận hẩm duyên thiu” để sống giữa đời này và mỗi câu thơ viết ra để
mong con người sống tốt đẹp hơn, thương nhau, yêu nhau chân thật không lọc lừa
giả trá. Và Đặng Xuân Xuyến rút ruột trải lòng:
Thôi ta mặc lời người
độc địa
Cố nín câm giữ biển lặng
sóng ngầm
Chầm chậm bước giữ nhịp
đời thật chậm
Tình yêu là hoa, là hương, là trời xanh mây biếc.
Có được tình yêu, có được hạnh phúc thật sự
trên đời ta như chắp cánh lượn bay tới cõi trăng sao. Nhưng yêu cũng lại là niềm bất hạnh không gì sánh
nổi.
Qua những dòng thơ “Viết cho
ngày Valentin” của Đặng Xuân Xuyến như nhắc cùng ta hãy biết trân trọng giữ gìn những gì có được trong
tay đã là hạnh phúc, không gì thay thế được.
*.
Hà Nội, tháng 07 năm 2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
TIM ĐAU
Chẳng biết nữa
Con tim đã bao lần chắp vá
Thêm một lần đau nữa
Có sao đâu.
Hắt hiu chiều
Xao xác gió vu vơ
Lời hẹn ước ném chềnh hềnh đầu ngõ.
Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ
Vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy
Ta sẽ cố để không ai thấy
Héo hắt chiều
Sưng tấy trái tim yêu.
*.
Hà Nội, chiều 03 tháng 05 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM HƯỞNG “TIM ĐAU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bài thơ Tim Đau
của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ có nỗi lòng, có tâm trạng, có ma lực ám ảnh,
gây xúc cảm cụ thể mà phiêu diêu, ngôn ngữ thẳng tưng mà vẫn mênh mang ý tứ,
cấu từ chữ nghĩa đời thường, không cầu kỳ trau chuốt mà thu hút...
Thú thật, thoạt lướt qua
bài thơ cảm tưởng nhịp thơ tuần tự, đều đều như khúc hành ca mốt hai mốt sẽ tẻ
nhạt... nhưng “bập” vào thấy khẩu khí, tốc độ chữ nghĩa kết tinh chuyển động tự
nhiên, hồn vía bâng lâng, bảng lảng... Chỉ tiếc ở ngay câu đầu nhà thơ đã điềm
đạm quá, tỉnh quá mà điềm tĩnh tung ngay tố từ: “Chẳng biết nữa”, làm giảm sức gợi mở và khí tiết bài thơ. Cứ đi
thẳng, tạo cấu tứ ngay từ “Con tim đã bao
lần chắp vá”, không có “Chẳng biết
nữa” làm cánh cửa mở hờ hững, khem khép như thế thì câu thơ chân thành,
trung thực, tự nhiên sẽ làm ảo ảnh rầm rầm chuyển động...
Câu tiếp sau: “Thêm một lần đau nữa/ Có sao đâu.”, tiếp
ứng câu trước, khí liền mạch tạo dựng tứ thơ. Đọc đến đây chẳng ai lại cho đấy
là cơn đau tim của bệnh lý, của cơn đau xác thịt mà là cơn đau của tâm sinh lý,
của biểu hiện con tim hồn đang run rẩy, đau đớn trước những trắc ẩn, “chắp vá”, được mất của tình chồng vợ - lứa đôi. Tác giả thật khéo léo và thông minh
khi viết Tim Đau (chứ không phải là Đau Tim), để nhấn nỗi đau tinh thần,
nỗi đau tình cảm trong duyên nghĩa vợ chồng - đôi lứa. Phải kiên cường, cao đạo
lắm thì mới vượt qua được những cơn đau, những lần “chắp vá” của trái tim yêu, để lòng
thánh thiện tự vấn tự thán: “Con tim đã
bao lần chắp vá/ Thêm một lần đau nữa/ Có sao đâu”. Riêng đoạn này, khổ này
có thể đã là một bài thơ. Nhưng không, nhà thơ vẫn tiếp: “Hắt hiu chiều/ Xao xác gió vu vơ”. Lại thêm hai chữ “vu vơ”, nhà thơ lại mắc vào tính cẩn thận không cần thiết. Chữ “vu vơ” đã làm giảm nhịp điệu thơ, ì ạch
tốc độ và nhòe mờ tâm ảnh thơ. Theo tôi, nhà thơ nên bỏ chữ “vu vơ” cho chiều thêm “hiu hắt”, gió thêm “xao xác” mông lung, câu thơ sẽ khắc họa bóng dáng tâm khảm bâng
lâng, buồn buồn mà thanh cao thi vị, để thấy “lời hẹn ước ném chềnh hềnh đầu ngõ”, thấy cái tình đời mờ tỏ thực
hư: “Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ”
mà “vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy”,
để mà đắc đạo, chịu chấp nhận âm thầm đơn độc trong cuộc tình đôi lứa, để “không ai thấy”... “Héo hắt chiều/ Sưng tấy trái tim yêu.”.
Ôi buồn quá! Cái buổi
chiều bảng lảng hoàng hôn như kiếp con người cuối thu sương khói. Nhưng thật
vui sướng thay, sau bao lần “chắp vá”,
vẫn thấy trái tim còn nguyên vẹn. Nếu trái tim đã vỡ nát thì làm sao “sưng tấy” được “trái tim yêu”?! Hình ảnh “Trái
tim yêu sưng tấy” thật độc đáo, mới lạ, thật cảm động, hạnh phúc, đã
thánh thót ngân lên khúc ca: Được
yêu, được đau, được chắp vá để được trái tim yêu trọn vẹn!
TIM ĐAU là bài thơ ngắn
gọn, súc tích, dễ đọc, dễ cảm nhưng thật khó bình. Chắc nhà thơ cũng phải trăn
trở quằn quại lắm, phải trung thành và trung thực trở lại với chính mình, với
chính trái tim thổn thức của mình mà đối ngẫu, đối cảm, phát tiết xúc cảm buồn
mà cao sang, đau mà ngọt ngào thi vị...
*
Hà Nội, ngày 17 tháng 04.2016
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã
Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Email:
nguyendanghanh1234@gmail.com
MEN ĐẮNG
Đây men rượu hơn 15 năm trước
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại
Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
Ừ ly nữa
Ừ thêm ly nữa
Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa
Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
*.
Hà Nội, đêm 10 tháng 12.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM XÚC VỚI BÀI THƠ “MEN ĐẮNG”
Vô tình đọc được bài thơ hay Men
đắng của tác giả Đặng Xuân Xuyến, tôi phải đọc đi, đọc lại vài lần
cho chất men ủ 15 năm nó thấu tâm can, luồn vào những ngõ ngách của quá khứ với
những trắng đen của nhân tình thế thái lắng tận đáy lòng rồi bật ra những rung
cảm cùng với những cảm xúc mà trong đó có một chút xót xa, một chút nuối tiếc,
một chút ngậm ngùi chua chát… và những cảm xúc đó trộn lại biến thành những nỗi
đau của chính mình để ta có thể thấu hiểu được nỗi đau của tác giả đã trải vào
trong thơ.
Bản chất cố hữu của người đàn ông,
hầu như chẳng thể nào quên được những dĩ vãng dù nó cay đắng như thế nào đi
nữa, trong lòng họ luôn mang theo trong suốt cuộc đăng trình của cuộc đời cho
đến ngày nhắm mắt xuôi tay. 15 năm mới chỉ là một quãng đường để nhìn lại, một
lúc nào đó ta cảm thấy trống vắng cô đơn nơi một góc nhỏ, bất chợt trong góc
khuất của tâm hồn bị tác động bởi một cơn mưa, bởi một buổi chiều nắng ráng hiu
hắt những tia nắng mỏng manh cuối chiều lùa trên những ngọn cỏ úa vàng hay một
cơn gíó xào xạc cuốn những chiếc lá vàng rơi chao trong chiều thu hoang tịch
lạnh lẽo… đánh động ký ức trỗi dậy như cuốn phim chiếu chậm, lôi mọi thứ từ
trong tiềm thức ra bày biện rồi dày vò tâm trí mà cứ ngỡ sự việc mới xảy ra
ngày hôm qua….
Đôi khi chỉ ta với chiếc bóng quạnh
hiu bên chén rượu cay nồng, chất men đắng đậm thêm bới chất men của dòng đời 15
năm thấm vào huyết mạch đánh thức bộ nhớ để cho ta bất ngờ thấy hụt hẫng với
vòng tay trống lạnh như tác giả đã khởi đầu:
Đây men rượu hơn 15 năm trước
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống
bùn
Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
Muốn quên nhưng không thể quên được
vì những ám ảnh của ngày xưa đã trở thành một vết hằn sâu trong tâm thức. Ta tung
hoành ngang dọc, phỉ chí tang bồng, đội đá vá trời lấp biển chẳng có gì có thể
cản bước nhưng lại mềm nhũn dưới cái bóng của người đàn bà, cứ ngỡ hai tâm hồn
đã đồng điệu, và với đôi bàn tay mềm mại ấy sẽ xoa dịu những vết chai sần trong
trái tim bởi khắc nghiệt của sóng gió bể dâu, cứ ngỡ là nơi chốn bình yên sau
những phong ba dâu bể để ta đi về tìm những phút giây yên bình… nhưng ngờ đâu:
Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại
Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành
sẹo?
Vết thương rồi có thể sẽ lành, nhưng
vết sẹo thì theo ta mãi mãi và nó cứ khơi lại những vết đau lòng âm ỷ, có khi
nó quật ngã cả một cuộc đời nếu như ta sống buông thả bất cần nghĩ đến ngày mai
và những gì hiện hữu chung quanh mình:
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
Khi ta chấp nhận hy sinh và bỏ lại
sau lưng những tráo trở của lòng người với chấp ngã sân si, chấp nhận đằng sau
sự im lặng là tiếng đời gán cho ta những đốn mạt đớn hèn… Chấp nhận để buông bỏ
và ta cảm thấy mình ở một tầm cao khác nhưng ta vẫn cảm thấy hụt hẫng vì những
điều không thể ngờ tới:
Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
Rồi ta đau, vì kẻ đã cùng ta một
thời nồng ấm, ta đau vì một thời đã chẳng tiếc sự hao mòn thể lực và trí tuệ để
vun vén một tổ ấm, cứ ngỡ trăm năm tuế nguyệt viên mãn đi đến tận chân trời
hạnh phúc nào ngờ chết lặng giữa đường đời không lời phân tỏ…
Nhưng với tác giả tôi tin rằng anh
đã và sẽ tiếp tục tiến lên phía trước với tấm lòng bao dung quảng đại. Như tôi
đã nói, tâm trạng tác giả chỉ là một lúc bộc phát bởi ngoại cảnh chi phối, anh
có thể say mềm trong đêm nay để quá khứ vật vã, nhưng rồi mai anh sẽ lại đứng
lên tiếp tục cuộc hành trình của mình…
Ừ ly nữa
Ừ thêm ly nữa
Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa
Quên bóng tà lẩn khuất phía song
thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
…
Nghiền ngẫm bài thơ xong đã lâu mà
dư âm cứ lắng đọng mãi trong lòng. Trong cuộc đời mỗi người chắc có lẽ ai cũng
một lần đổ vỡ, cay đắng bởi những tráo trở của thói đời đen bạc và phản trắc,
có thể là từ một cuộc tình, có thể từ những việc khác, từ những mối quan hệ
khác, từ đó ta có những chiêm nghiệm cho bản thân và thấu hiểu được nỗi lòng
tác giả trải vào thơ.
Bài thơ hay không phải vì cách dùng
từ ngữ bay bướm hay kỹ thuật điêu luyện tung hứng con chữ. Bài thơ chỉ dùng
những từ ngữ đơn giản nhưng bắt nguồn từ những cảm xúc rất thật trải đều lên
con chữ theo nhịp điệu thổn thức từ những nỗi đau, sự trăn trở từ một con tim
chân thành và như một lời tự sự đầy day dứt… khiến ai đọc cũng nao lòng.
Tôi không phải là người chuyên bình
thơ, tôi chỉ là bạn thơ của tác giả Đặng Xuân Xuyến nên cảm nhận không đủ sức
đào sâu thêm vào những ngõ ngách sâu thẳm khác, với riêng tôi bài thơ đã đạt
được nghệ thuật nhân sinh hiện hữu để có một giá trị nhất định trên con đường
sáng tác của Đặng Xuân Xuyến…
*.
Sài Gòn, 16 tháng 05/2017
NGUYỄN THÀNH
Địa chỉ: 158/15S, Hòa Hưng, phường 13
quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
Email: rose61186nt@gmail.com
"MEN ĐẮNG" - BỮA RƯỢU ĐẦY CAY ĐẮNG
"Men Đắng" cũng là bữa rượu một
mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng đã tan vỡ, từ
mười lăm năm trước về trong hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm đó, cái men
mà:
Chót nhấp môi ta trượt
bước xuống bùn
Cho nên tay nâng chén mà
trong lòng vẫn cảm thấy:
Thon thót sợ vô tình gặp
lại.
Tự gật đầu với mình “Ừ ly nữa”, thêm rượu để cố quên đi nhưng:
Cạn ly này có quên được
chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày
nào lành sẹo?
Và rồi chuyện xưa cứ hiện
về rõ mồn một:
Ừ thì cứ trách ta bạc
bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững
hờ
Nhưng đâu phải thế, mà
chỉ vì:
Quá thật thà ta ra kẻ
ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình
nơi kẻ chợ.
Người đã như yêu tinh,
như hồ ly mà lại thêm trời cũng ăn ở bất công: Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Nên ta đành phải:
Cố vẫy vùng thoát xa
khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời
không phân tỏ.
Men Đắng đầy bi phẫn vì
không biết phân tỏ cùng ai, tưởng như sẽ đẩy nhà thơ vào miền bế tắc. Nhưng may
thay vẫn có một chút ánh sáng là khi cuối cuộc độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân
tướng không tốt đẹp gì của người đã đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho
mình ly nữa, ly nữa để quên đi cái bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang
đợi:
Quên bóng tà lẩn khuất
phía song thưa
Ta cạn chén đón bình
minh trước cửa.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
TÌNH NỞ
Nở ơi… đận ấy… trăng hè
Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu
Ơn trời đêm ấy Chí liều
Cháo hành Thị Nở còn phiêu đến giờ.
Vườn trăng nhễ nhại chẳng ngờ
Hương tình Thị Nở tới giờ vẫn tươi.
*
Hà Nội, ngày 30 tháng 11
năm 2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM NHẬN VỀ TÌNH NỞ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chỉ mấy câu thơ ngắn gọn
đã diễn đạt đến đỉnh cao của cảm xúc: cảm xúc xác thịt và cảm xúc tâm hồn. Đọc
thơ, không ai không thấy máu nóng hình như cũng chảy rần rần trong da thịt mình
trước cảnh ân ái dưới trăng của Thị Nở - Chí Phèo, hai con người bị dồn nén
sinh lý lâu ngày. Đọc thơ ta cũng thấy yêu mến cái thứ tình chất phát trong tâm
hồn của hai con người thật thà được bày tỏ qua tô cháo hành.
Ta thấy vườn trăng đêm ấy
“nhễ nhại” nhưng không nhớp nhúa như
những chốn lầu xanh đèn mờ, vì trong ánh trăng “nhễ nhại” đó nồng nàn một thứ “hương
tình tới giờ vẫn tươi”.
Bài thơ nhắc đến Thị
Nở và Chí Phèo, hai nhân vật trong truyện ngắn nổi tiếng có tên Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
xuất bản năm 1941, là một tác phẩm xuất sắc viết về tấn bi kịch
của một nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội thời đó. Chuyện tình Thị
Nở - Chí Phèo của nhà văn Nam Cao đã gây cảm hứng cho nhiều tác giả cảm
tác về “Chí Phèo”, để cho ra đời những tác phẩm “Chí Phèo - Thị Nở” với diện
mạo mới, tình tiết mới nhưng để diển tả hết cái chất nóng kích dục, cái hương
tình âu yếm vọng đến trăm năm chỉ trong vài câu thơ ngắn gọn thì nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến đã thành công.
Chí Phèo là một tác phẩm văn học được nhà văn Nam Cao xây dựng những nhân
vật chân thực, sống động, điển hình với ngôn ngữ tự nhiên, sinh động,
gần với sinh hoạt của người nông dân thời phong kiến. Đây là một tác
phẩm văn học đã phổ biến gần như với mọi người. Do đó nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến đã khôn khéo khi chỉ cần dùng những câu thơ ngắn, kích
động được hồi ức của con người để hình ảnh của câu chuyện sống
động lại trong lòng bạn đọc. Bài thơ không cần dài nhưng dựng được
lại cả câu chuyện trong trí nhớ và cô đọng câu chuyện ấy trong chủ
đề Tình Nở, tách và làm
nổi bật phẩm chất ẩn chứa trong câu chuyện tình yêu độc đáo, vốn
không đẹp dưới con mắt thường tình của đời.
Bằng hai câu thơ thôi,
tác giả đã giới thiệu được nhân vật, thời khắc, khung cảnh, tâm lý
nhân vật và toát yếu câu chuyện xảy ra:
Nở ơi… đận ấy… trăng hè
Giả ngây Nở để Chí đè
cưỡng yêu
“Đận ấy” là gì? Là tiếng địa phương của một vùng nào đó,
chỉ về thời gian trong quá khứ, có nghĩa là lúc ấy hay thuở ấy.
Khó có tác giả nào dám dùng chữ như thế, và sự “liều” dám dùng chữ
“đận ấy” đã làm cho câu thơ trở
nên mộc mạc, hòa hợp với câu chuyện của miền quê. “Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu”: Câu thơ hiển hiện lại
đêm trăng trong trí óc ta, hiển hiện lại thân thể Thị Nở dưới trăng và
làm nóng hổi trong đầu ta đoạn phim Chí Phèo cưỡng bức Thị Nở. Đọc
hai câu thơ ta thấy gì? Ta thấy tình yêu diễn ra dưới trăng của hai con
người dưới đáy xã hội không bần tiện chút nào. Nếu đọc chính
truyện của Nạm Cao, không ai không cảm nhận trong đêm hôm đó, nhục dục
của hai người trong truyện thiên về thú tính nhiều hơn. Qua thơ Đặng
Xuân Xuyến, cái thú tính đó biến mất, chữ “giả ngây’ và chữ “cưỡng”
không làm nặng nề bối cảnh mà cho ta hình dung được sự lý thú của
hai con người tự nguyện đến với nhau.
Với hai câu thơ kế
tiếp, tác giả cũng chỉ tóm tắt một phần thân bài của câu chuyện
Chí Phèo nhưng gởi vào đó những từ ngữ làm nhẹ đi dục tính trong
hành động của Chí Phèo và đặt vào câu chuyện một thứ tình đằm thắm,
thiết tha như trở thành một kỷ niệm đẹp khắc trong lòng mỗi người:
Ơn trời đêm ấy Chí liều
Cháo hành Thị Nở còn
phiêu đến giờ.
Với Chí Phèo thì
không có “ơn trời” vì Chí Phèo
chửi cả trời. Vậy “Ơn trời” là
lời của tác giả với chủ đích như một lời trách nhẹ, trách âu yếm về
cái hành động liều lĩnh của Chí. Chữ “phiêu” trong câu “Cháo hành
Thị Nở còn phiêu đến giờ” cũng là lời của tác giả gởi vào
lòng người đọc cái hơi nóng của tô cháo mà Chí Phèo đã thưởng thức
trong đêm hôm ấy, làm cho “cháo” trở thành thú vị trong tâm tưởng ta
ngày hôm nay. Hai câu thơ gây ấn tượng trong lòng ta, cho ta thấy một
Chí Phèo ít thô lổ, ít cộc cằn hơn. Tình yêu của họ trở nên lý
tưởng với tô cháo hành “còn phiêu
đến giờ”. Từ đó, tác giả đã làm cho sự thích thú của Chí Phèo
lan ra và kéo dài thời gian trong lòng người đọc thơ.
Và cuối cùng tác giả
khẳng định hương thơm của tình yêu - của tính bản thiện - tỏa trong vườn
trăng đêm ấy vẫn còn tươi mãi đến giờ:|
Vườn trăng nhễ nhại
chẳng ngờ
Hương tình Thị Nở tới
giờ vẫn tươi.
Sẽ có người không
thích câu “Vườn trăng nhễ nhại”
nhưng với tôi tác giả dùng chữ “nhễ
nhại” vô cùng hợp lý. Nhễ nhại là ở trạng thái ướt đẫm, chảy
thành dòng. Vườn trăng nhễ nhại là vườn tràn đầy ánh trăng nhưng ánh
trăng không trong vắt. Đây là ánh trăng nhìn qua lăng kính của người thi
sĩ. Họ nhìn ánh trăng qua tâm lý khi thấy cuộc tình đang diễn ra không
phải là một cuộc tình nên thơ, có phần nhục dục. Cảnh và tình trong
thơ phải hòa hợp với nhau, vì vậy tác giả phải khiến cho ánh trăng
không còn trong như chính nó. Hai câu thơ cuối cho ta cảm nhận một thứ
hương rất lạ, đó là thứ hương tình (bản thiện) của Thị Nở, một thứ
hương tình hiếm có ở những người phụ nữ bình thường.
Tình Nở là một bài thơ cho ta hai cảm xúc. Cảm xúc ở tâm hồn đem đến
cho ta cảm nhận hương vị của một mối tình bình dân, chân chất và mộc
mạc. Cái hương vị đó ta không tìm thấy khi đọc chính truyện của nhà
văn Nam Cao. Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã đặt vào trong sáu câu thơ ngắn
của mình những từ ngữ thích đáng như “ơn trời”, “giả ngây”, “cưỡng yêu”, “hương tình”, “vẫn tươi”
để thi vị hóa cái đêm hôm đó, làm cho Tình Nở gây hình ảnh đẹp trong thơ và tạo ấn tượng
đẹp trong lòng bạn đọc. Cái cảm xúc trong tâm hồn mà tác giả tạo ra trong
thơ làm cho sự cảm xúc trong xác thịt bớt đi tính dục. Từ đó hơi
nóng tình dục chảy trong người khi nhớ lại cảnh ái ân đầy bản năng
dưới trăng không còn lõa lồ khó nhìn nữa, mà nó trở nên một bức
tranh nghệ thuật tả chân.
Có thể nói, Tình Nở của Đặng Xuân Xuyến đã
cô đọng thi đề, thi tứ, thi ý trong những câu thơ súc tích. Thơ ngắn
nên sức khái quát thật cao. Sự lựa chọn để miêu tả những khoảng
khắc dồn nén thật đúng lúc và tuyệt vời. Bài thơ cũng tạo một cái
nhìn mới vào truyện ngắn Chí Phèo mà từ lâu, đã được giảng dạy ở
học đường theo một định hướng không hoàn toàn của nó ./.
*
Đà Nẵng, ngày 13/04/2017
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
TÔI NGHE
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh xứ Thanh
Cung phụng bồ nhí siêu xe bạc tỉ
Biệt thự rải khắp nơi
Chiếm đất vàng phố thị
Còn ủ mưu đầu cơ chính trị
Bợ gót đưa “nàng” vào cơ cấu
Quan thật giầu!
Quan tính kế thật sâu!
Quan lấy tiền từ đâu?
Từ bòn rút dân đen?
Hay tận vét bằng trò buôn quan bán chức?
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh xứ Bái khử nhau
Hệt như phim hình sự
Vì ân oán tư thù?
Vì ăn chia không đủ?
Vì lật lọng bảo kê ghế ngồi cơ cấu?
Tháng Tám mùa thu
Tám phát giang hồ
Khô khốc nổ
Niềm tin gục đổ
Náo loạn lòng người
Choáng váng tình đồng chí.
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh Hà Giang
Thiết lập vương triều nhà Triệu
Này thì vợ
Này em trai
Này thêm chồng em gái
Mật ngọt ruồi bu
Khoanh vùng chia nhau cát cứ.
Tôi nghe...
Đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi
Ba năm tới trường bằng mượn áo rách của anh
Bà Lò Thị Phanh
Bệnh viện trả về
Không tiền thuê xe
Xác cuốn chiếu
Gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.
Tôi nghe...
Những mảnh đời khốn khó
Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ
Có câu tức nước ắt vỡ bờ
Khi niềm tin rạn vỡ.
*.
Hà Nội, chiều 21 tháng 09
năm 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Ở tuổi “Cổ lai hy” rồi,
trái tim chẳng dễ gì xúc động, vậy mà đọc bài thơ “Tôi nghe” của Đặng
Xuân Xuyến thật khó cầm lòng. Chỉ với năm khổ thơ ngắn đưa lại những thông tin,
sự kiện đã và đang xảy ra ngoài xã hội, gần như ai cũng biết, nhưng khi nó được
dồn nén bằng những câu chữ thành dòng dài ngắn, thành một bài thơ, những sự
kiện rời rạc kia bỗng gợi nên những tương phản buồn vui của đất nước không của
riêng ai những tháng năm này.
Chuyện vị quan đầu tỉnh
xứ Thanh dùng bồ nhí thao túng cơ cấu chính trị tỉnh đâu còn là chuyện riêng
của xứ Thanh. Cái chết một lúc ba nhân vật đứng đầu của tỉnh Yên Bái không được
giải thích nguyên nhân, đâu chỉ là sự báo động của riêng Yên Bái? Chuyện tưởng
không có gì ở Hà Giang:
Quan đầu tỉnh Hà Giang
Thiết lập vương triều
nhà Triệu
Này thì vợ
Này em trai
Này thêm chồng em gái…
Đọc xong những câu thơ,
liệu có ai nghĩ chuyện này chỉ riêng ở Hà Giang!
Còn bao chuyện tha hóa
biến chất của các quan chức nhà nước cấp tỉnh, cấp trung ương, có việc đã lộ ra
như nguyên thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền về hưu, mới biết ông đã can tội
tham nhũng (chưa có án xét xử). Rồi gần đây là vụ ông Trịnh Xuân Thanh lãnh đạo
ngành xây lắp dầu khí làm thất thoát hơn 3.000 tỷ, đơn vị vẫn được hai lần tặng
thưởng huân chương, phong tước anh hùng, để điều chuyển về làm phó chủ tịch
tỉnh nọ, lại đắc cử nghị viên quốc hội mới bị phát hiện. Đích danh tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng chỉ thị các cơ quan trách nhiệm phải làm rõ việc này đưa ra
ánh sáng, xét xử. Dù ông Thanh đã cao chạy xa bay thì vẫn còn đó cái lệnh truy
nã toàn cầu…
Mừng cho ngòi bút tác giả
bài thơ “Tôi nghe” nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những vụ
tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất hảo”
trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu vẫn
còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả.
Và đoạn thơ thứ tư bất
ngờ xuất hiện:
Tôi nghe...
Đứa trẻ Gia Lai chết
trong tức tưởi
Ba năm tới trường bằng
mượn áo
rách của anh
Bà Lò Thị Phanh
Bệnh viện trả về
Không tiền thuê xe
Xác cuốn chiếu
Gập ghềnh xe thồ hơn
trăm cây số.
Một em bé ba năm tới
trường với chiếc ao đi mượn, lại là chiếc áo rách và chiếc áo rách ấy theo em
cả lúc xuống mồ. Hỏi còn gì tủi cực hơn cho một tâm hồn ngây thơ trong sáng, và
một kiếp người! Bàng hoàng hơn, ở thế kỷ 21 này và ở Việt Nam mình mà có hình
ảnh một người chết ở bệnh viện, không có tiền thuê xe, cuốn trong chiếc chiếu,
chở xe thồ hơn trăm cây số!
Tám câu thơ gợi hình ảnh
tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh
sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ
nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui
buồn thao thức lương tri.
Tám câu thơ ngắn liệm
trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công
bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời
nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Bài thơ không cần đoạn
thứ năm:
Tôi nghe...
Những mảnh đời khốn khó
Những anh Vươn sắp
trơ lì hãi sợ
Có câu tức nước ắt vỡ bờ
Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó
đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải
khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng
qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.
*
Hà Nội, ngày 06 tháng 10.2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
VÀI LỜI VỀ BÀI THƠ "TOI NGHE..." CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Khi cảm nhận về bài thơ
"Tôi nghe", nhà thơ
Chử Văn Long viết:
“Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ
đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành
một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã
hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn
thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba
đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu
nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách
ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương
tri. Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào
khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham
còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi không đồng
thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận của ông về Tôi nghe:
“Bài thơ không cần đoạn
thứ năm:
Tôi nghe…
Những mảnh đời khốn khó
Những anh Vươn sắp trơ
lì hãi sợ
Có câu tức nước ắt vỡ bờ
Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người
đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn
lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng
với đau thương gánh chịu.”
vì khổ thơ cuối không chỉ
là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút
trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà
văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những
tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy
ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến
đấu như thế?.
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
CUỒNG YÊU
Ta đầu hàng! Xin tạo hóa buông tha
Mệt mỏi lắm Kiếp cư Tài hãm địa
Nát Phu-Thê bởi chềnh hềnh Cô-Quả
Sao nỡ bồi hội Phá-Phục-Hình-Riêu?
Ta sợ rồi những phép thử tình yêu
Đã Tham hãm còn đặt Đào trực chiếu
Kiếp trai lơ nhiễu nhương tình dâm loạn
Hội Riêu-Đà thêm bi lụy chiếu chăn.
Cơ-Lương-Thìn gặp Tuần-Triệt cắt ngăn
Khiến Phu-Thê đảo chao bao trắc trở
Ngắm thiên hạ líu lo tình chồng vợ
Thêm mủi lòng cời bếp lửa trơ vơ.
Đêm vặn mình cạn kiệt những hoang mơ
Ngày lặng lặng gặm khối tình man dại
Xúi Tam Minh cúi đầu nghe vô lại
Ngạo nghễ cười Riêu nhập chủ dâm bôn.
Giữa hồng trần lẳng lặng chọn cô đơn
Sát Tý-Ngọ hội Kiếp-Riêu thành khốn
Gái dại giai rải tình trăm bến bãi
Trai trải lòng hoang hoải những bờ vai.
Vợ chồng mình nào khác vợ chồng ai
Cũng ái ân cũng ánh nhìn đằm đắm
Sao người ta nói cười vui vạn dặm
Còn mình thì lệ ngược chảy vào tim?
Có lẽ vì Mã-Lộc hội Phá-Tham?
Hay sát tinh gặp Âm Dương lạc hãm?
Ừ. Tham-Sát hội cung nên thê thảm
Gái giang hồ, trai tứ chiếng đề tên?
Mệt lắm rồi! Xin tạo hóa lãng quên
Buông Mã-Lương đóng ở nơi Tỵ-Hợi
Đời mỉa mai: lũ loạn dâm, làm đĩ
Gột bao giờ mới hết được tiếng nhơ?
Đạo vợ chồng nào đâu dám thờ ơ
Nhưng Tử-Tham ở cùng nơi Mão-Dậu
Uẩn khúc đấy, tình trường này, cố giấu
Cửa thiền môn xin dựa bóng sớm chiều!
Biết phận mình khoác số kẻ cuồng yêu
Tình chồng vợ như trưa chiều đổi áo
Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu trở tráo
Cũng dâm ô, đắc kép tựa Mã-Đào
Số phận này oan nghiệt bởi trời cao
Ta phẫn uất. Hận bàn tay tạo hóa
Trời cao hỡi! Trời cao ơi! Đểu quá!
Cho đẹp rồi lại phá bởi cuồng yêu!
*
Hà Nội, chiều 10 tháng
11.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẾN VỚI BÀI THƠ MANG HỒN CỐT TỬ VI
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thơ và tử vi hòa trong
máu của Đặng Xuân Xuyến. Thơ là tiếng lòng anh. Tử vi là tự nghiên cứu và chiêm
nghiệm, soi đời mình trong lá số, đặc biệt là soi sự đổ vỡ trong tình yêu của
chính anh. Có lẽ vì thế, anh tung lên facebook bài thơ - CUỒNG YÊU. Cuồng yêu
là bài thơ chỉ những người biết về tử vi mới hiểu, những người ngoại đạo chỉ
cảm bằng thơ, nhưng hiểu sâu xa đến cội nguồn thì chỉ lơ mơ.
Bình bài thơ này tôi
không bình về nghệ thuật thơ, mà chỉ chú giải các sao trong tử vi trong bài thơ
để mọi người hiểu về bài thơ.
Mở đầu bài thơ nhà thơ
viết:
Ta đầu hàng! Xin tạo hóa
buông tha
Mệt mỏi lắm Kiếp cư Tài
hãm địa
Nát Phu-Thê bởi chềnh
hềnh Cô-Quả
Sao nỡ bồi hội
Phá-Phục-Hình-Riêu?
''Kiếp'' là sao Địa Kiếp
trong tử vi, được gọi là hung tinh, đóng ở đâu phá ở đấy, đặc biệt ở ''cung Tài
- ''tiền tài'' hãm địa sẽ làm cho tiền bạc của con người gieo neo, khổ ải. Thậm
chí vong gia bại sản, sự liều lĩnh của sao Địa Kiếp - Địa Không còn dẫn tới ngục tù.
Địa Kiếp đóng ở cung
miếu địa lại rất tốt, đặc biệt những người sinh vào tháng tư, tháng mười lại
được hưởng thế mạnh của hung tinh, chắc chắn trong đời sẽ một thời đại phát,
tiền của ùa vào như sấm.
Dù miếu địa, nhưng Địa
Kiếp - Địa Không độc thủ, tính chất
khác hẳn khi đồng cung với các sao khác, sẽ mang đến những may, rủi khác nhau
cho những người có năm sinh khác nhau.
Bàn về sao Địa Kiếp - Địa Không sẽ tràng giang
đại hải, trong bài viết này tôi chỉ bàn khái quát, chủ yếu bàn Kiếp-Không đi
với hai sao Đào Hoa và Hồng Loan
Về nguyên lí: Địa Kiếp-
Địa Không đi với Đào-Hồng là tơ duyên trắc trở, éo le, oan trái. Nếu đi thêm
với sao Thiên Hình thì oan nghiệt, thậm chí tự tử vì tình. Mức độ tàn phá của
Địa Kiếp- Địa Không cho mỗi lá số khác nhau, có thể chia li chồng vợ, có thể bị
cưỡng hiếp, có thể bị sát phu, hoặc sát thê, có thể phụ nữ phải làm nghề bằng
vốn tự có... hoặc đi tu rồi lại vấn vương trở về cõi tục
''Nát Phu Thê bởi chềnh
hềnh Cô - Quả'', Cô - Quả là hai sao Cô Thần và Quả Tú, chỉ cần
một trong hai sao Cô Thần - Quả Tú đóng ở cung Phu - Thê sẽ dẫn tới cuộc sống
vợ chồng luôn có một khoảng trống vắng trong tâm hồn khó hòa hợp, bởi Cô Thần
và Quả Tú mang tính cô đơn, khó tính khó chiều. Nam kị Cô Thần nữ kị Quả Tú, vì
hai sao Cô Thần và Quả Tú mà có những người phụ nữ xinh tươi, những người đàn
ông tài giỏi lại vô duyên, do dự không thắng được lòng mình để quyết đến với
tình yêu, và có người phải ở vậy đến già...
''Sao nỡ bồi Phá-Phục-Hình-Riêu''. Đời sống hôn nhân đã bị Cô Thần và
Quả Tú làm lạnh lẽo rồi, lại thêm: ''Phá-Phục-Hình-Riêu''
nữa thì càng khổ hơn,
''RIÊU'' là sao Thiên
Riêu, tượng là ''lông'', ý nhĩa là sao DÂM, Thiên Riêu đi cùng các sao khác sẽ
mang ý nghĩa khác nhau. Cho nên có người lông tóc mượt; có ngươi lông tóc khô,
cứng; có người nhiều lông; có người ít lông; có người tuổi trẻ mà đã có tóc
bạc. Tính của Thiên Riêu là dâm, do vậy khả năng tình dục của mỗi người cũng
khác nhau. Có người to khỏe mà khả năng tình dục kém, có người bé nhỏ khả năng
tình dục lại tràn đầy như nàng Phi Yến mảnh mai.
Lông ở mắt ''lông mày''
là mái nhà của đôi mắt cũng báo hiệu khả năng tình dục của người ấy. Thiên Riêu cũng biểu hiện khả năng trực giác nhậy
cảm. Cho nên có người lãnh cảm, có người thời gian ân ái lâu dài, có người chưa
đi chợ đã hết tiền. Nhưng Thiên Riêu đi với sao Thiên Y- Ân Quang, Thiên Quí,
lại hợp với sao Thiên Cơ- Thiên Lương lại tốt và đức độ. lá số ấy biểu hiện là
thầy thuốc, lại thêm sao Hồng Loan nữa là thầy thuốc mát tay, đi với Thiên Hình
là bác sĩ phẫu thuật giỏi, hoặc thầy thuốc châm cứu giỏi.
Trở lại câu thơ: ''Nát Phu Thê bởi chềnh hềnh Cô-Quả'/ sao nỡ
bồi Phá-Phục-Hình-Riêu'' tác giả muốn miêu tả sự cay đắng, cô đơn, héo hon
trong tình yêu đến tột đỉnh.
“Phá” là sao 'Phá Toái'
- gây sự và xóa bỏ. ''Phục'' là sao Phục Binh biểu hiện âm mưu và ngầm phục chờ
cơ hội để tác họa. Ôi, trong tình yêu mà âm mưu thì đầy nguy hiểm. tình yêu mà
lăm le xóa bỏ sẽ dẫn đến chia tay, lại thêm Cô Thần, Quả Tú -lạnh lùng với
Thiên Riêu dâm đãng, ngầm chứa con dao - ''Thiên Hình'' chia cắt thì oan nghiệt
cho tình yêu biết bao. Ngôn ngữ - thuật ngữ của
tử vi làm sâu sắc thêm cho thơ mà ngôn ngữ thường chưa đạt tới đỉnh:
Ta sợ rồi những phép thử
tình yêu
Đã Tham hãm còn đặt Đào
trực chiếu
Kiếp trai lơ nhiễu
nhương tình dâm loạn
Hội Riêu-Đà thêm bi lụy
chiếu chăn.
Tham là sao ''Tham
Lang'' đệ nhị đào hoa tinh, ngôi sao lẳng lơ ngồi nơi ''hãm'' - trong bóng tối,
nhìn Đào Hoa - ''gái đẹp'' khát thèm như người đàn ông nhìn phụ nữ bằng ánh mắt
lột truồng người đẹp để thỏa mãn lòng dục ''tình
dâm loạn'', ánh mắt nhìn ''trực chiếu''
như muốn nuốt chửng con mồi, và hội trong máu cả ''Phá-Riêu-Đà'' càng bi lụy, chung thân tân khổ trong việc ấy -
chiếu chăn.
Phá - Đà là hai sao hung
bạo, Riêu là sao dâm kết hợp với nhau là bạo dâm, đạo vợ chồng mà lại bạo dâm,
mất hết tình cảm trở thành thô thiển và hoang thú, không có nhạc dạo, mà như ăn
sống nuốt tươi mới buồn biết bao. Tác giả đã trải qua nỗi thống khổ ấy mới
than, khóc như vậy
Cơ-Lương-Thìn gặp
Tuần-Triệt cắt ngăn
Khiến Phu-Thê đảo chao
bao trắc trở
Ngắm thiên hạ líu lo
tình chồng vợ
Thêm mủi lòng cời bếp
lửa trơ vơ.
''Cơ-Lương'' là hai sao
Thiên Cơ và Thiên Lương, Thìn là cung Thìn. Cơ Lương là hai sao phúc tinh đóng
ở cung Thìn rất tốt gọi là ''miếu địa'', đang ở nơi tốt lành an vui lại bị Tuần
- Triệt ngăn cách. Tuần là tuần không, Triệt là triệt không, Tuần Triệt là hoàn
cảnh khách quan ngăn trở
Về nguyên lí khi Tuần
Triệt đóng ở cung Phu-Thê là vợ chồng phải xa nhau, có thể xa một năm hay nhiều
năm. Xa nhau bằng bất cứ lý do gì. Có thể li thân, có thể vì làm ăn ở xa, đi
nước ngoài, ...Có lẽ Đặng Xuân Xuyến đã có thời phải li thân - xa vợ nên mới
dùng tính chất của hai sao Tuần-Triệt để thể hiện trong thơ rất đắt. Anh đau
đớn nhìn cảnh những lứa đôi líu lo với nhau như chim ca hát mà tủi phận mình:
''mủi
lòng cời bếp lửa trơ vơ''...
Giữa hồng trần lẳng lặng
chọn cô đơn
Sát Tý-Ngọ hội Kiếp-Riêu
thành khốn
Gái dại giai rải tình
trăm bến bãi
Trai trải lòng hoang
hoải những bờ vai.
Sát là sao Thất Sát,
đóng ở cung Tí hoặc cung Ngọ là đắc địa, nhưng hội nhập với sao Kiếp và Riêu là
hai sao hung tinh và sao dâm, cũng như người tử tế chơi với kẻ xấu bị ảnh
hưởng, gần mực thì đen, thực tế ở đời có người chân thực - cương dũng bị kẻ xấu
''Địa Kiếp'' lôi kéo ám hãm vào sự dâm, như anh hùng khó thoát ải mĩ nhân cũng
là chuyện thừờng Nhưng ở văn bản thơ: ''Gái
dại giai rải tình trăm bến bãi'' như tố cáo người phụ nữ - người vợ
ngoại tình, mà tình trăm bến bãi càng thấy sự mê hoặc cám dỗ kinh khủng của sao
hung tinh ''Địa Kiếp'' và sự quyến rũ mê hồn gợi dục của sao Thiên Riêu. Người
con trai bị đòn của Kiếp - Riêu nhẹ hơn nhưng cũng ''trải lòng hoang hoải những bờ vai''. Ông ăn chả bà ăn nem âu cũng
là chuyện đời không thiếu. Nhưng ở đây ta thấy người vợ tệ hơn, bờ bụi hơn.
Thất Sát là sao mạnh -
biểu hiện khí chất mạnh - cương dũng nhưng bị cuốn vào vòng xoáy của Kiếp -
Riêu cũng bị sa đà, ''hoang hoải'' và có trường hợp sợ phụ nữ hoặc căm ghét phụ
nữ. Bờ vai là tượng trưng cho sự mạnh mẽ của đàn ông, mà những đàn ông này lại
cần những bờ vai của đàn ông khác, là sao vậy? Là vì đó là mẫu người có thể là
pede, có thể là ái nam ái nữ, có thể là người vì lý do nào đó mà căm ghét phụ
nữ... Phải chăng vì thế mà Đặng Xuân Xuyến đã tế nhị viết: “Trai trải lòng hoang hoải những bờ vai”.
Có lẽ vì Mã-Lộc hội
Phá-Tham?
Hay sát tinh gặp Âm
Dương lạc hãm?
Ừ. Tham-Sát đồng cung
nên thê thảm
Gái giang hồ, trai tứ
chiếng đề tên?
Mã là sao Thiên Mã, Lộc
là sao Hóa Lộc, Phá là sao Phá Quân, Tham là sao Tham Lang trong tử vi.
Có lẽ Đặng Xuân Xuyến
chưa thấu hết cả chiều sâu và chiều rộng của bộ sao ''Mã - Lộc hội Phá - Tham''. Đây là bộ sao mạnh trong việc kiếm tiền
- ''Tham Lang gặp Lộc kiếm tiền như trở
bàn tay'', lại thêm Thiên Mã - sức chạy của ngựa trời chở tiền và cả ngôn
ngữ siêu việt cả Thiên Mã - ''Mã ngộ Khốc
- Khách'' - ngựa có nhạc rất hay. Có lẽ một thời nhà thơ kiếm được rất
nhiều tiền, nhưng đời sống vợ chồng yêu nhau và đến với nhau vì tiền thì chưa
phải là tình yêu đích thực, và tôi đồ rằng: tiền là một trong những nguyên nhân
làm đổ vỡ tình cảm cuộc sống vợ chồng của nhà thơ.
''Sát tinh gặp Âm - Dương lạc hãm'', sát tinh là những sao hung trong
tử vi, gặp Thái Dương - ''mặt trời'' và Thái Âm - ''mặt trăng'', đặc biệt là
Kình Dương và Đà La rất tối kị trong tình yêu. HÃM là ở không đúng chỗ,
như mặt trăng phải ở từ cung Dậu đến cung Sửu - tức là từ 6 giờ chiều đến 3 giờ
sáng, mặt trời phải đóng ở cung Dần đến cung Ngọ - tức là từ 3-4 giờ sáng đến
12 giờ trưa thì mới hợp cách.
''Ừ. Tham - Sát đồng cung nên thê thảm/ Gái giang hồ trai tứ chiếng đề
tên'' THAM là sao Tham Lang, SÁT là sao
Thất Sát - là hai sao mạnh, phụ nữ có một trong hai sao này ở mệnh thì khí chất
mạnh bạo không kém nam nhi, không hợp trong tình yêu, ở thế kỉ 21 phụ nữ mạnh
bạo hơn xưa và cũng vì vậy sự tan vỡ trong tình yêu cũng tăng so với thế kỉ
trước, vợ chồng ở với nhau cùng cương dũng sẽ bất ổn dễ dẫn tới đổ vỡ phải có
độ cưng nhu mới tạo thế Âm - Dương cân bằng mới an bình.
Hai sao Tham Lang và
Thất Sát trong tử vi không đồng cung mà chỉ hợp chiếu thôi nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến ạ. Phải chăng vì chú trọng đến gieo vần mà nhà thơ để vậy?!
Kết thúc bài thơ, Đặng
Xuân Xuyến đã tự ngộ:
Biết phận mình khoác số
kẻ cuồng yêu
Tình chồng vợ như trưa
chiều đổi áo
Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu
trở tráo
Cũng dâm ô, đắc kép tựa
Mã-Đào
“Cuồng yêu” có nguyên
nhân và nguyên nhân chính là anh tự kìm nén, đã bao tháng năm kìm nén vì thương
con mà không chịu tục huyền và chỉ cuồng yêu trong thơ. Soi tình yêu của đời
mình qua lăng kính tử vi thấy ''Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu trở tráo/ Cũng dâm
ô, đắc kép tựa Mã-Đào''.
Toàn những sao lạnh
lùng, cô đơn, dâm đãng và tráo trở dày vò trái tim cuồng yêu, anh đau đớn như
người bệnh vô phương cứu chữa. Chờ ở số phận và trách số phận: ''Số phận này oan nghiệt bởi trời cao/ Ta phẫn
uất hận bàn tay tạo hóa/ Trời cao hỡi! Trời cao ơi! Đểu quá!''
Tôi đã xong việc chú
giải các sao tử vi trong bài thơ CUỒNG YÊU của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, hy vọng
bạn đọc hiểu thêm về bài thơ.
*
Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2017
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai
Bà Trưng, Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
HỒN QUÊ
Ta về gặp lại hồn quê
Mẹ ta xưa quẩy nắng về hong mưa
Một đời sướng thiếu khổ thừa
Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa nỗi đau
Heo may trở dạ mùa sau
Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi
Chắt chiu ủ ấm nụ cười
Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”
Tháng Mười, tháng Bảy, tháng Ba
Mẹ gom gió lạnh mưa sa bão dồn
Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn
Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha
Ta về gặp lại hồn ta
Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời...
*
Hà Nội, sáng 06 tháng
03.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
HỒN QUÊ VÀ MẸ TA XƯA
Mới qua tết Nguyên Tiêu chưa được 5 ngày, nỗi
nhớ thương quê hương trong tôi, một kẻ xa quê gần trọn kiếp người, vẫn man
mác một màu buồn suốt từ đêm Trừ tịch đến giờ đang còn chưa dứt
thì lại đọc được bài thơ Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến
khiến màu buồn nhớ đó càng thêm đậm sắc.
Nhìn tên bài thơ trong tôi bỗng bật lên một câu
hỏi: Hồn quê là gì?
Người ta thường hay nói về hồn người và gần
như mặc định tin rằng mỗi một người đều có một cái hồn, đó là cái
tinh anh của con người mà cái chết không bao giờ hủy diệt nổi: “Thác là thể phách còn là tinh anh”.
Thì quê hương cũng thế. Mỗi một làng quê đều
có một hồn quê, đó là cái tinh anh của làng quê ấy, của xứ sở ấy, của
riêng vùng đất ấy mà người dân làng ấy dù ai đi đâu ở đâu có đến cả trăm nơi ở
khác, dẫu có đẹp hơn quê mình vẫn thấy nhớ thương da diết về cái hồn quê ấy.
Và, cũng như tinh anh của con người, cái hồn quê ấy không gì huỷ diệt
được.
Hồn quê, ấy có thể là một cây hoa gạo bên bến
sông, là một con đường làng đất đỏ, một ngôi đình làng, một mái chùa làng,
một cánh cổng làng, một lễ hội làng… Nó cũng có thể là những tập tục
tốt đẹp của người dân làng quê ấy, là những nét lịch sử hào hùng hay
truyền thống văn hoá đặc sắc hoặc sự tích các nhân vật kỳ tài của
vùng đất ấy… Hồn quê giản dị gần gũi vậy thôi
nhưng nó luôn sống trong lòng người dân làng từ đời này sang đời khác.
Nhưng đọc Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến, ta
lại không thấy một câu chữ nào nói về những nét tinh anh của quê nhà như
thế mặc dù quê hương của nhà thơ là làng Đá, một làng quê chỉ cách Hà
Nội non sáu chục cây số nhưng đến nay vẫn giữ được trong mình những nét cổ
kính của một làng quê Việt Nam với những cây đa, giếng nước, sân đình, cổng
làng và những ngôi nhà cổ…Và, còn hơn thế, ở làng quê của nhà thơ còn có ngôi
chùa Đá nổi danh từ thời nhà Lý với sự tích truyền tụng về cô thôn nữ đẹp
người đẹp nết của làng được hoàng cung tuyển chọn làm thiếp yêu cho vua. Vào
ngày cô dời làng lên xa giá về cung, bỗng xuất hiện đám mây ngũ sắc, hình dáng
tựa con rồng xanh, như đang ngồi che chở cho cô, theo cô về triều. Dân làng cho
đó là điềm lành nên hoan hỷ lắm, liền lấy điềm đó đổi tên làng thành làng Đỗ
Xá…
Mà đọc Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến, ta
chỉ thấy hiện lên hình ảnh một bà mẹ quê, nói đúng ra là hình ảnh
người mẹ của nhà thơ. Bài thơ có 3 khổ rưỡi, 14 câu lục bát thì 12
câu đã được dành trọn nói về bà mẹ ấy.
Hai câu thơ mở đầu :
Ta về gặp lại hồn quê
Mẹ ta xưa quẩy nắng về
hong mưa
Một lời kể thật cảm động. Mẹ ta xưa là người đã
không quản ngại khó khăn, góp công góp sức sức làm cho cuộc sống, cho quê
hương có được phần tươi đẹp. Hai hình ảnh quẩy nắng, hong mưa giản dị và dễ
hiểu mà rất sinh động, có thể nói hay không kém gì hình ảnh “múc ánh trăng vàng” trong câu ca dao đã
làm say lòng người không biết bao nhiêu thế hệ
Sau hai câu phác họa nhanh về mẹ ta xưa đầy xúc cảm
ấy, nhà thơ thả hồn mình vào nỗi nhớ về một đời mà mẹ đã sống:
Một đời sướng thiếu khổ
thừa
Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa
nỗi đau
Mẹ ta xưa, cũng như trăm nghìn bà mẹ quê nghèo
khổ ở nông thôn Việt Nam trước đây, “một
đời sướng thiếu khổ thừa” nên không dám ước mơ nhiều điều vui sướng mà
chỉ mong phải khổ thế nào thì sẽ cố gắng kiếm tìm cho được vừa đủ những
sợi tơ hạnh phúc để đan vá, để che đậy cho vừa vặn kín nỗi đau khổ
đó.
Một trong những ước vọng hạnh phúc rất đơn
sơ của mẹ là gia đình luôn được xum họp quây quần, vui vẻ êm đềm bên nhau
dưới mái nhà tranh ở quê nhà. Nhưng cuộc đời đâu có cho mẹ được như thế.
Vì cuộc sống, một số người thân yêu ruột thịt của mẹ đã phải xa quê
khiến mẹ lại thêm vất vả, lại phải chắt chiu nhiều thứ để sẻ chia cho
những “Người ở xa” ấy:
Heo may trở dạ mùa sau
Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu
nắng tươi
Chắt chiu ủ ấm nụ cười
Mẹ nhen lửa giữ cho
“Người ở xa”
3 hình ảnh đầy ắp trong 4 câu thơ: bàn tay mẹ se
gió lạnh để nắng tươi khỏi bị nhàu úa/ Mẹ chăm chút, nâng niu từng li từng
tí những gì coi là quý như một nụ cười cũng cần phải ủ ấm/ Mẹ nhen nhóm ngọn
lửa để không bị tắt, nguội lạnh. Tất cả, mẹ đều để dành cho người ở xa.
Có thể nói, ba hình ảnh ấy là ba nét khắc rất
tinh xảo và rất đẹp đã tạo nên một bức tranh tinh tế và chân thật về mẹ ta xưa
làm bật lên hồn cốt tấm lòng giàu tình thương và đức hy sinh cao cả của
mẹ.
Khổ thơ thứ ba là những màu sắc tô điểm thêm
cho hoàn chỉnh bức tranh ấy về mẹ:
Tháng Mười, tháng Bảy,
tháng Ba
Mẹ gom gió lạnh mưa sa
bão dồn
Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn
Mẹ ru ta nặng trĩu hồn
quê Cha
Bất kể thời gian nào, đầu năm, giữa năm hay cuối
năm, tháng này sang tháng khác, mẹ đã không quản gió lạnh mưa sa, bão
dồn nhặt nhạnh góp gom những gì có ích để nuôi nấng các con về cả thể
chất lẫn tâm hồn. Những hình ảnh tráng lệ như gió lạnh mưa sa bão dôn cùng
màu sắc sẫm đỏ hoàng hôn đặt liên tiếp dồn dập bên nhau kết hợp với các từ
mạnh như gom, đổ vào đã diễn đạt đầy cảm xúc hình ảnh người phụ nữ một đời
chịu thương chịu khó, một đời lo toan vất vả vì gia đình và con cái.
Nhưng cho dù gian khổ đến mấy, lòng mẹ bao la vẫn luôn dịu hiền trong lời ru
con “nặng trĩu hồn quê Cha”.
Toàn cảnh bức tranh về mẹ ta xưa trong Hồn
Quê của Đặng Xuân Xuyến dễ gợi người đọc nhớ tới hình ảnh sâu
đậm trong tâm trí của người dân việt Nam nhất là ở nông thôn: “Con cò lặn lội bờ sông”. Một phận người
tần tảo, vất vả sớm khuya.
Hai câu kết:
Ta về gặp lại hồn ta
Mẹ ta thì đã đi xa cuối
trời...
Vậy là bà mẹ của nhà thơ mất đã lâu rồi.
Nhưng người đọc hiểu rằng: Thể phách của mẹ có thể đã tan biến hết còn cái
tinh anh, cái hồn của mẹ được kể bằng tất cả những hình ảnh, những tích chuyện
ở trên thì không hề bị hủy diệt mà vẫn luôn luôn sống trong lòng đứa con và
vẫn đang sống cùng cái tinh anh, cái hồn của quê. Vì thế, mỗi lần về quê, gặp
lại hồn quê thì con thấy ngay mẹ xưa hiện lên trong đó. Vâng: Trong Hồn Quê ta có cả Hồn Mẹ ta đó.
Có thể nói, đấy không chỉ là một hàm ý sâu sắc mà
còn là một phát hiện tâm linh mới mẻ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.
Ai mà chẳng có quê, có nơi chốn mình sinh ra. Ai mà
chẳng có mẹ, người mang nặng đẻ đau ra mình. Bởi vậy, cái hồn quê trong đó có
cả hồn mẹ mình không có gì là thánh thần kỳ bí mà chỉ là những nét đẹp bình dị
gần gũi nhưng vô cùng thiêng liêng cao cả mà bất kỳ người dân nào của quê
hương, người con nào của mẹ đều hằng gìn giữ trong lòng. Mất linh hồn là mất
hết.
Hồn quê là thế. Giản dị thế thôi. Nhưng thật
tiếc, không thấy mấy văn chương viết về Hồn quê. Có lẽ, hai tiếng Hồn quê
trong câu Kiều nức danh của cụ Nguyễn Du muôn đời vẫn sẽ là hai tiếng được
nhiều người nhắc tới: Đoái trông muốn dặm tử phần/ Hồn quê
theo ngọn mây Tần xa xa
Bài thơ Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến chưa hẳn
đã là hay với nhiều bạn đọc nhưng rất đáng đọc và đáng khích lệ. Bởi vì trong Hồn
Quê của Đặng Xuân Xuyến sáng lung linh hồn mẹ ta xưa của nhà thơ.
*
Sài Gòn 07 tháng 03.2018
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
KÝ ỨC - HỒN TA - HỒN QUÊ
Khi
trên đầu đã 2 thứ tóc, đã sống đủ dài, đã trải nghiệm đủ lao đao lận đận, đã
biết thế nào là “lên voi xuống chó”... đáng lẽ phải cố quên, cố buông bỏ, thi
tôi lại cứ nghĩ nhiều về sự sống. Chả phải là vì còn nuối tiếc điều gì, mà chỉ
là vì những mảng dĩ vãng không mời mà cứ ùn ùn đến...
Chả
kể là tôi đang ở đâu, tâm trạng ra sao, thích hay không thích thì nó vẫn bất
chợt xuất hiện những hình ảnh con người, sự việc… không cho ta quyền lựa chọn.
Nhiều thứ tưởng chừng đã chìm sâu vào dĩ vãng muốn tìm, bây giờ có bới đất lật
cỏ lên cũng chả thấy. Như cầu ao, bến nước sau nhà… hay một nơi nào đó đã ôm ấp
một thời, một đoạn rất là đắm đuối và cũng vô cùng xót xa muốn đào sâu chôn
chặt... thì nó lại nhảy bùm vào hộp KÝ ỨC. Nó ám ảnh, níu kéo… bắt tâm tưởng ta
nhớ lại…
Có
những KÝ ỨC nhớ lại làm ta giật mình, trăn trở, làm cho nước mắt ta chảy, mũi
ta cay, cổ ta nghẹn cứng và đôi khi cũng có cả những thứ làm ta bật cười…
Và
mỗi lần như thế KÝ ỨC cho ta biết thương, biết yêu hơn, biết hiểu thấu thế nào
là đau là buồn hơn, biết tha thứ và ân hận nhiều hơn… KÝ ỨC dạy dỗ ta, làm ta
thức tỉnh, nuôi tâm hồn ta lớn….
KÝ
ỨC của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến còn cho ta thấy được HỒN QUÊ.
HỒN
QUÊ
.
Ta về gặp lại hồn quê
Mẹ ta xưa quẩy nắng về hong mưa
Một đời sướng thiếu khổ thừa
Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa nỗi đau
.
Heo may trở dạ mùa sau
Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi
Chắt chiu ủ ấm nụ cười
Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”
.
Tháng Mười, tháng Bảy, tháng Ba
Mẹ gom gió lạnh mưa sa bão dồn
Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn
Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha
.
Ta về gặp lại hồn ta
Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời...
*
Hà
Nội, sáng 06 tháng 03.2018
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN
-------------------
(báo Việt Luận Úc
Châu - Viet’s Herald on Friday, 12 March, 2021)
Đọc
bài thơ, trong đầu tôi liền hiện ra ngay một bức tranh được nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến tài tình dùng KÝ ỨC của mình để vẽ trên nền thơ lục bát một HỒN QUÊ khi
tác giả: "TA VỀ GẶP LẠI HỒN QUÊ."
Vậy
HỒN QUÊ mà Đặng Xuân Xuyến gặp là gì? Sao được gọi là Hồn? có hình hài, dáng
vóc, tính cách ra sao?... Chả chữ nào nói đến, mà chỉ thấy HỒN QUÊ vô cùng trừu
tượng được lồng cùng bóng hình của MẸ trong ký ức nhà thơ ồ ạt tràn về.
Phải
chăng HỒN QUÊ đối với nhà thơ này không phải là mấy cảnh quan Cổng làng, Mái
đình, Cây đa… tất cả những thứ đó sẽ thay đổi theo năm tháng. Chỉ có cảm xúc
của Trời Đất cho vùng quê nghèo khó này cái nắng, cái gió, cái mưa, cái bão khó
ưa, khó sống vẫn muôn đời chứng nào tật nấy… mới là HỒN QUÊ. Mẹ đã gắn bỏ, đã
chịu đựng với nó … để nuôi mình khôn lớn.
MẸ,
người đàn bà yếu đuối hết lòng vì chồng, vì con phải chống chỏi, vật lộn với một
HỒN QUÊ không hiền lành chút nào, mưa không thuận gió không hòa, quanh năm mưa
dầm, bão nổi… nên đời mẹ “SƯỚNG THIẾU, KHỔ THỪA”.
Khi
HỒN QUÊ trái gió trở trời, mùa vụ thất bát “tháng
mười, tháng bảy, tháng ba”…
"Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi
Chắt chiu ủ ấm nụ cười
Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”..."
Nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến được "Mẹ ru ta
nặng trĩu hồn quê Cha" nên dù đi đâu, ở đâu vẫn luôn muốn quay về, vì
nơi đây anh có rất nhiều KÝ ỨC đã khắc sâu, hằn kỹ trong tâm khảm tác giả:
"Ta về gặp lại hồn ta
Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời..."
Với
thể thơ lục bát, chỉ vỏn vẹn có 3 khổ rưỡi mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã khắc
họa nên hình ảnh, tính cách một HỒN QUÊ khắc nghiệt, một người MẸ đảm đang,
chịu thương chịu khó điển hình cho những vùng quê Bắc Bộ Việt Nam.
Chắc
chắn những người con đã sinh ra và lớn lên ở những vùng quê này, dù họ đang ở
đâu thì KÝ ỨC về quê hương cũng đang nuôi lớn tâm hồn họ. Khi họ trở lại thăm
quê thì cũng sẽ gặp HỒN QUÊ mỗi người, mỗi vẻ. Có lẽ là qua hình bóng Cha, bóng
Chị, bóng Bà và cũng có thể là người thương khác...
Đúng
như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: "Khi
ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!".
Bài
thơ HỒN QUÊ thật hay! Cảm ơn nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
Tôi
xin giới thiệu đến bạn đọc.
*.
Dresden ngày
05 tháng 08/2021
TRẦN THỊ
HỒNG CHÂU
Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,
Garmany
(Cộng hòa Liên bang Đức).
Email: hongt4368@gmai.com
Điện thoại: 004915256432988
RÉT CẰN
.
Gói lời yêu vào lửa
Em chùng chình bước qua
Ngoái đầu, em thành lạ
Ríu chiều hiu hắt mưa
Chân trần dạo ngõ xưa
Lối về xa xăm quá
Mấy mùa cây thay lá
Rét cằn chẳng trổ hoa
*
Làng Đá, 18 tháng 11.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “RÉT CẰN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
"Gói lời yêu vào lửa"
thì nó sẽ cháy bùng lên còn gì? Và sẽ cháy bùng dữ dội hơn vì trong tình yêu
bao giờ cũng có lửa.
Vâng! Chỉ có nhà thơ mới làm được cái việc "điên rồ" như thế.
Còn người trần mắt thịt chúng tôi thì chỉ ủ nó trong đôi bàn tay còn khó.
Ôi! Yêu quá câu thơ: “RÍU CHIỀU HIU HẮT MƯA”. Giá có bình luận một câu
thơ này thì như cổ nhân đã dạy: "Thuyết
thi nhất thủ thị hàn tuyền", có nghĩa: Bàn về một bài thơ hay một suối
sách vẫn không đủ. Với câu thơ này thì cứ cho là một khe sách vẫn chưa đủ.
Có những lúc xuất thần chỉ cần một câu thơ như thế bài thơ sẽ bừng sáng
lên. Và như có lần Hoài Thanh đã nói về một bài thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã lưu
danh”. Tôi nghĩ với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu
danh trong đời. Bỏi vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa. Câu thơ
không chỉ viết về một chiều mưa buồn hiu hắt mà gửi gắm trong đó bao nỗi niềm
của một người si tình khi gói lời yêu vào lửa gửi người tình mà em vẫn lạnh
lùng không ngoái lại. Hỏi sao lòng không RÍU lại. Nhưng nhà thơ của chúng ta
vẫn không dám nhận sự thờ ơ hờ hững của em đã làm ríu lòng anh và ríu cả cuộc
đời hiu hắt của anh, Vâng! Chỉ là “ríu
chiều hiu hắt mưa” thôi các bạn ạ.
Tại sao lại “Chân trần dạo ngõ xưa”.
Ta lại thấy được chàng thi sĩ này muốn để đôi bàn chân trần cảm nhận cho thật
đủ đầy hơi ấm còn đọng lại từ thời xa xưa khi hai con người lúc nào cũng cận kề
sóng bước bên nhau trên cái ngõ nhỏ bình yên trong một xóm mạc bình yên. Nhưng
đó chỉ là khát vọng và chàng thi sĩ chợt nhận ra một hiện thực phũ phàng vì cái
ngõ cũ giờ đã quá xa xăm. Trên cái ngõ cũ ấy dù bốn mùa vẫn thay cành trổ lá
nhưng vì cái “rét cằn” của em đã làm
cho tim anh buốt giá thì không thể có một loài hoa nào có thể nở, kể cả bông
hoa đẹp nhất - hoa tình yêu, thứ hoa đáng ra càng rét càng bùng nở để sưởi ấm
lòng nhau.
Thỉnh thoảng được đọc những bài thơ lãng đãng khói sương mịt mờ hư ảo của
chàng thi sĩ đa tình và si tình Đặng Xuân Xuyến bỗng thấy lòng mình cũng nao
nao một nỗi buồn man mác, một niềm tiếc nuối vu vơ, rồi cứ thế thẫn thờ mơ mộng
giá như mình trẻ lại cái tuổi của Đặng Xuân Xuyến để viết những bài thơ tình
như thế...
*
Bắc Ninh, 25 tháng 12.2018
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,
phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh
Email: nguyenxuanduong1940@gmail.com
CÒN YÊU
Ừ, còn yêu đấy, đã sao
Khó khăn chi một tiếng chào, để quên
Chín Hè gạn nhớ không tên
Chín Đông se giọt mưa rền ngõ quê
Ráng chiều đỏ quạch triền đê
Người đi người dụi câu thề vào mây
Gió gầy đan kín vòm cây
Mưa xâm xấp hạt ken ngày vào đêm
Tiếng cười lệch rớt vai mềm
Chát chao lạnh với gió đêm thậm thào.
Ừ, còn yêu đấy, đã sao
Khó khăn chi một tiếng chào,
để quên.
*
Làng Đá, 02 tháng 06.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẶNG XUÂN XUYẾN...“CÒN YÊU”
Lâu lắm rồi mới vui vì tác giả cũng yêu... khùng như mình.
Ừ, còn yêu đấy, đã sao
Một cách nói tỉnh khô, bất chấp, mặc kệ ở cái tuổi trẻ chưa qua, già chưa
tới.
Tình yêu nó là thế, nó luôn dẫn dắt người ta thêm liều lĩnh, phớt lờ hoàn
cảnh ra sao.
Mình cứ thấy gã yêu đó, tay đút túi quần, miệng huýt sáo, vẻ bất cần đời
để buông câu:
Khó khăn chi một tiếng
chào, để quên!
Nói thì vậy nhưng tình lại khác, tác giả tình ranh lắm, cái mùi thính sặc
lên vẻ ngạo mạn để che nỗi đau khắc khoải bên trong.
“Chín Hè” rồi lại đến “Chín Đông”, nỗi đau chín mõm được gạn chắt đến
giọt cuối cùng của nỗi nhớ mà nhớ không tên mới làm con người không thể hoá
giải. Tâm trạng ấy trộn lẫn với tiếng mưa đêm ngõ quê vắng vẻ.
Ráng chiều đỏ quạch
triền đê
Người đi người dụi câu
thề vào mây
Thỉnh thoảng tác giả hay có những câu thơ vượt trội mà hình ảnh này không
bịa ra nổi.
Ai đã từng nhớ, từng yêu từng đi trong cái mầu đỏ của ráng chiều mới cảm
được nỗi buồn đến tê tái, nhất lại là người mới yêu lại.
Đến đây tác giả lộ nguyên hình sự đa cảm, nặng tình. Nhưng với người kia
thì tình chưa đủ sức nóng để hạ lòng, tình như một chiếc đóm mong manh, chỉ cần
dụi cái là tắt ngấm, mà dụi vào mây phù vân bay mất.
Bài thơ chỉ có vài khổ nhưng chứa đựng, ngầm nói rất nhiều ẩn ngữ. Thú vị
thật.
Nguy hiểm! Đặng Xuân Xuyến thật nguy hiểm.
*.
Thành Nam, 02.06.2019
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
ĐỪNG ĐI
Ở lại đi
Một đêm thôi
Một đêm thôi, ở lại
Ta xin người ở lại, chỉ một đêm
Ngoài kia trời lướt khướt sũng đêm
Ta tí tách trong này mơ hồ từng giọt rỏ
Ta nào khóc. Chỉ là ta quá nhớ
Những chiều Thu ai tết tóc bên thềm
Rãi trăng vàng ai ríu rít hằng đêm
Và ai nữa khiến ta từng ngộp thở.
Ta xin đấy. Ngoài kia là những gió
Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ
Người ở lại.
Đừng đi!
Đừng đi!
Ta sợ
Bảy năm trời thoáng chốc chỉ là mơ.
*
Làng Đá, đêm 29.09.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
KHÁT YÊU TRONG BÀI THƠ “ĐỪNG ĐI”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tâm trạng, cảm xúc của con người là thế đó khi bị dồn nén đến tận cùng
thì nỗi khát khao cũng lên đến đỉnh điểm của tận cùng. Trong cuộc đời chắc rất
nhiều như thế. Nhưng chỉ có những thi nhân mới dám bày tỏ những khát khao đến
bạo liệt như của Đặng Xuân Xuyến qua những dòng thơ vụn vỡ gãy nát vì quá khát
khao.
Không do dự, không xấu hổ, Đặng Xuân Xuyến đã mời mọc đã cầu xin ta thấy
anh như đang gào lên và rồi hình như biết rằng có gào thế chứ gào mãi cũng vô
ích nên nhà thơ bắt đầu sụt sùi kể lể cầu mong nàng có động lòng mà ở lại cùng
anh dù chỉ một đêm, dù chỉ là khoảnh khắc:
“Ở lại đi
Một đêm thôi
Một đêm thôi, ở lại
Ta xin người ở lại, chỉ
một đêm
Ngoài kia trời lướt
khướt sũng đêm
Ta tí tách trong này mơ
hồ từng giọt rỏ”
Vâng anh không khóc có lẽ nếu tự thú điều đó thì nhà thơ cảm nhận mình kẻ
thấp hèn đi trước nàng, điều mà anh biết chắc rằng nàng không bao giờ muốn anh
như thế. Rồi anh viện cớ là NHỚ thôi.
Ôi nàng đẹp thế, trong khoảnh khắc thần tiên thế ai không nhớ nàng cho
được:
“Ta nào khóc. Chỉ là ta
quá nhớ
Những chiều Thu ai tết
tóc bên thềm
Rãi trăng vàng ai ríu
rít hằng đêm
Và ai nữa khiến ta từng
ngộp thở”
Nàng thật đẹp! nhất là những chiều thu nàng ngồi bên thềm tết tóc với cái
dáng nghiêng nghiêng trong chiều gió thoảng. Đôi tay nàng mềm mại nõn nà cứ lần
vuốt những lõn tóc đen huyền thơm ngạt ngào hương bưởi hương chanh, thơm mùi bồ
kết ...Rồi những đêm trăng thu nàng cứ ríu rít, ríu rít mãi thâu đêm làm cho
anh ngộp thở... Vâng tất cả chỉ là nhớ nhung về những kỷ niệm xa xưa. Nỗi đau ở
đây vì đó chỉ là những kỉ niệm nó không thuộc về thực tại! Vì nàng đã không ở
lại...
“Ta xin đấy. Ngoài kia
là những gió
Hun hút đêm, hun hút ánh
đèn mờ
Người ở lại.
Đừng đi!
Đừng đi!
Ta sợ”
Một lần nữa nhà thơ đã gửi lời cầu xin. Cầu xin không được rồi hù dọa
cảnh đêm khuya hun hút gió lùa, đêm thì tối, đèn thì mờ...Rồi anh lo lắng sợ
hãi nếu nàng cứ quyết ra đi không ở lại liệu trong đêm tối trời trong gió mưa
ấy nàng có mệnh hệ gì anh biết sao đây? Anh sẽ phải ân hận suốt cả cuộc đời.
Đọc câu kết ta mới hiểu không chỉ khoảnh khắc, không chỉ một phút, một
giờ, một đêm mà bảy năm rồi nhà thơ của chúng ta đã cầu xin một tình yêu và anh
chợt nhận ra rằng giờ nó đã hoàn toàn vụn vỡ chia xa. Chỉ là một giấc mộng kê
vàng. Thế mới biết sự chờ đợi trong tình yêu đã đạt đến giới hạn của sự vô
cùng:
“BẢY NĂM TRỜI THOÁNG
CHỐC CHỈ LÀ MƠ”
Nỗi khát khao tình yêu của Đặng Xuân Xuyến là khát khao rất thực từ một
con tim bạo liệt và có lẽ sẵn sàng quyên sinh vì người anh yêu dấu. Có nỗi đợi
chờ nào đã suốt 7 năm. 7 năm có bao nhiêu ngày bao nhiêu giờ bao nhiêu phút bao
nhiêu giây và bao nhiêu khoảnh khắc mà không đợi chờ không khao khát. Phải
không các bạn. Tôi trân trọng nỗi đợi chờ này...
*
Bắc Ninh, 01 tháng 07.2019
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,
phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh
Email: nguyenxuanduong1940@gmail.com
HOA NHÀI
- Mến tặng H.H.Ph –
Lần đầu đến thăm tôi
Cô mang theo một đóa hoa nhài
Hoa bình dị
Tôi mỉm cười
Nhìn mây bay
Hờ hững.
Rồi lần sau
Cả những lần sau
Cô không mang thay đổi sắc màu
Vẫn bình dị những đóa nhài nho nhỏ
Và tôi cười
Hờ hững ngó mây trôi.
Rồi một chiều cô không đến thăm tôi
Một ngày đông hoa nhài không nở
Tôi ngơ ngẩn bên thiếp hồng để ngỏ
Ngó mây trời tôi đếm bâng quơ
Tôi trách cô vội bước sang đò
Không thương nhớ những cánh nhài nho nhỏ
Thấm trong tôi hương nhài nỗi nhớ
Tôi trách mình hờ hững ngó mây trôi.
*
Đại học Văn Hóa Hà Nội
1990
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
TÌNH YÊU GIẢN DỊ, TINH KHIẾT TRONG “HOA NHÀI”
Đọc bài thơ Hoa Nhài của Đặng Xuân
Xuyến, tâm trí tôi chợt hiển hiển lại mồn một câu chuyện xưa… Và nó như một lối
mở ban đầu giúp tôi bước vào thơ anh. Điều trùng hợp lạ kỳ đầu tiên là Đặng
Xuân Xuyến cũng từng học Đại học Văn hóa như cô gái tôi đã kể! Theo năm sáng
tác ghi dưới, và qua giọng thơ, tôi đoán lúc này tác giả mới ngoài 20 tuổi. Đó
là cái tuổi của mơ mộng, của tình yêu theo kiểu Puskin: nếu người mà ta yêu say
đắm bỏ đi lấy chồng, thì cầu cho người tình mới sẽ yêu em như tôi đã từng yêu!
Nhưng điều thú vị hơn cả, là ý tứ bài thơ đã được triển khai tựa một bộ phim
câm kinh điển của “Vua hài Sác-lô” - Ánh sáng thành phố (City Lights):
một gã lang thang có tâm hồn cao thượng tình cờ gặp và đem lòng yêu một cô gái
mù bán hoa, cứ mỗi lần có xe sang đỗ tới, gã lại bước đến mua cô gái mù, mua
một bông hoa, khiến cô có ấn tượng đó là một người hào hoa và giàu có… Ở đây
lại là một cô gái, đem theo một đóa hoa nhài mỗi lần tới thăm người cô quý
thương. Nhưng tấm lòng chân thật, giản dị của cô, cùng đóa hoa cũng giản dị và
“vô danh”, không có trong “từ điển của Tình yêu” đó đã được đáp lại bằng sự “hờ
hững” của chàng trai. Chỉ tới khi, cô gái và “những đóa nhài nho nhỏ bình dị”
không xuất hiện nữa, chàng trai mới chợt thấm thía sự quen thuộc đáng yêu của
chúng, mới thấy tiếc đến “ngơ ngẩn”… Và khi “cô vội bước sang đò”, anh đã trách cô đã vội vã, đã “không thương nhớ những cánh nhài nho nhỏ”;
nhưng thực ra là anh đã tự trách mình, giận dỗi với bản thân, để tới câu kết là
một lời thở dài buồn bã, sự tiếc nuối vời vợi:
Thấm trong tôi hương
nhài nỗi nhớ
Tôi trách mình hờ hững
ngó mây trôi.
Cái độc đáo của bài thơ là sự khéo
léo và tinh tế lồng ghép và tượng hình hóa vẻ đẹp thầm kín giản dị của tấm lòng
cô gái với vẻ đẹp của hoa nhài – một vẻ đẹp mà nếu sống vội vã, xốc nổi, thực
dụng sẽ không bao giờ nhận ra, không bao giờ hiểu nổi. Nhà thơ mượn hoa nhài
trong hành động thầm lặng của cô gái để cảnh báo cho mọi người - trong đó có
chính anh, về cách nhìn đối với những giá trị thực của tình cảm cùng cách ứng
xử cần có đối với chúng. Đừng để tới khi những vẻ đẹp, những giá trị quý báu
hàng ngày đến với ta nhưng vuột khỏi tay ta bởi sự vô tình vô cảm, ta mới ngẩn
ngơ, giật mình tiếc nuối, than thở như chàng trai trong bài thơ!
--------------
(Trích từ HOA NHÀI VÀ NHỮNG VUI BUỒN QUANH HOA
NHÀI của nhà văn, đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn)
*.
Hà Nội, 15 tháng 07 năm
2020
Mai An NGUYỄN ANH TUẤN
Địa chỉ: Phố Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội
Email: tranthanhban1956@gmail.com
Điện thoại: 091.217.49.47
MẤY KHÁM PHÁ THÚ VỊ VỀ BÀI THƠ "HOA NHÀI"
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đọc bài thơ "Hoa
Nhài" của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến tôi nghĩ chắc nhiều người không
chú ý đến chi tiết tả hoa nhài của nhà thơ, vì thế sẽ không thấy được chủ ý của
tác giả. Cũng như tôi, mấy lần trước đọc bài thơ “Hoa Nhài” đã không phát
hiện ra chi tiết thú vị này.
Khổ thứ nhất bài thơ, tác giả để
chàng trai rất thờ ơ khi nhắc đến đóa hoa Nhài (tượng hình tình yêu cô gái dành
cho chàng trai) của cô gái:
"Cô mang theo một
đóa hoa Nhài"
Sang khổ thơ thứ 2, tác giả cho
chàng trai đã có những chú ý tới cô gái qua chi tiết miêu tả hình ảnh bông hoa
cô cầm theo kỹ hơn: "đoá Nhài nho
nhỏ", qua đó thể hiện tình cảm của chàng trai dành cho cô gái đã có
phần gần gũi hơn, thân mến hơn:
"Vẫn bình dị những
đóa Nhài nho nhỏ"
Nhưng sang đến khổ thơ thứ 3 thì tác
giả lại để chàng trai buồn bã buông lời trách cứ cô gái:
"Không thương nhớ những cánh
Nhài nho nhỏ"
Từ "một đóa Nhài", đến "đóa
Nhài nho nhỏ", rồi "những
cánh Nhài nho nhỏ", là tỉ lệ thuận tình cảm của chàng trai với cô gái:
từ thờ ơ đến để ý, rồi chú ý, quan tâm và yêu.
Điểm đặc biệt nữa ở bài thơ "Hoa
Nhài" là tác giả đã sử dụng câu thơ bậc thang để diễn tả tâm trạng,
tình cảm của chàng trai với cô gái ở những câu cuối của 3 khổ thơ.
Từ thờ ơ, thậm chí có phần coi
thường tình cảm của cô gái ở khổ thơ đầu:
"Tôi mỉm cười.
Nhìn mây bay
Hờ hững."
Đến sự chú ý, quan tâm, thích thú
tới cô gái ở khổ thơ thứ 2.
"Và tôi cười.
Hờ hững ngó mây
trôi."
Rồi tới khổ thơ thứ 3, khổ thơ kết
thúc bài thơ thì không còn câu thơ bậc thang. Từ 3 bậc thang, xuống 2 bậc
thang, rồi đến không còn bậc thang để diễn tả tâm trạng, tình cảm từ thờ ơ,
hững hờ đến thích thú, rồi yêu của chàng trai với cô gái. Khoảng cách tình cảm
của chàng trai với cô gái cứ ngắn dần, ngắn dần đến không còn khoảng câch qua
từng lần giảm bậc thang trong 3 khổ thơ.
Thêm một điểm thú vị nữa là ở bài
thơ "Hoa Nhài", tác giả đã cho chàng trai cười 2 lần và 2 nụ
cười đó nếu không chú ý thì người đọc cũng sẽ dễ bỏ qua chi tiết thú vị này.
Lần thứ nhất: "Tôi mỉm cười." là nụ cười kiêu
ngạo, có chút khinh dễ khi lần đầu chàng trai nhận ra tình cảm cô gái dành cho
mình.
Lần thứ hai: "Và tôi cười." là nụ cười thẹn
thùng, thích thú, có ý chờ đợi cô gái của chàng trai mặc dù chàng trai vẫn còn
tạo "ra vẻ" giữ chút "xa cách" với cô gái.
Tất cả từ cách tiếp cận đóa hoa
Nhài, đến nụ cười của chàng trai và cách dùng câu thơ bậc thang đều đồng nhất
sự phát triển tình cảm của chàng trai với cô gái: từ thờ ơ, lạnh nhạt đến thân
thiện, quan tâm, rồi yêu.
Đó là những điểm khá thú vị trong
bài thơ "Hoa Nhài" của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
*.
Hà Nội, 19 tháng 08-2020
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công
ty 319
quận Long Biên, thành
phố Hà Nội.
Email:
huongmai8081@yahoo.com.vn
TÌM TÂM Ý TRONG THƠ
(Cảm nhận khi đọc bài thơ Hoa Nhài)
Để cảm nhận được TÂM Ý mà tác giả
muốn gửi gắm vào thơ thật không hề dễ chút nào! Rõ ràng mình vừa nhận ra ý bài
thơ là thế này, định chia sẻ với bạn đọc. Vậy mà khi đọc được những cảm nhận
của mọi người thì lại ra ý khác. Nhiều cảm nhận đâu có phải là lèng èng. Nó là
của những nhà thơ, nhà văn, nhà bình luận... Cảm nhận của họ đã làm cho bài thơ
được cất cánh, làm cho bạn đọc hiểu sâu thêm về mọi khía cạnh chìm, nổi trong
bài thơ. Lý lẽ của họ có sức thuyết phục được rất nhiều bạn đọc và xoay chuyển
được cả cảm nhận chớp nhoáng của tôi về bài thơ đang định vung ra, lại đành thu
hồi, hạ bút...
Vì điều này mà tôi không những chỉ
mê đọc thơ mà còn rất rất ghiền đọc tất cả những câu COM, bài BÌNH, bàì CẢM...
cho thơ. Không những để tôi hiểu sâu hơn về bài thơ, mà còn cân, đo, đong, đếm
xem bản thân còn sức cảm thụ được bao nhiêu.
Bữa qua đọc được bài thơ HOA NHÀI
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ đã làm hỉ, nộ, ái, ố trong tôi nhảy ra
khua khoắng, hành hạ… Tôi định viết ra như mọi khi để được trở lại trạng thái
tĩnh lặng, thi lại đọc được hai bài cảm nhận thật là hay của Mai An Nguyễn Anh
Tuấn và Vũ thị Hương Mai thế là lại mất tự tin, lại thấy đầu óc mình già nua cổ
hủ không còn nhiều xúc cảm để thẩm thấu thơ…
Nhưng rồi Hương Mai lại khích lệ -
cô muốn biết cảm nhận của tôi như thế nào?
Ừ thì cứ viết ra! Chắc anh chàng nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến này chả cưới bà già này đã đem bài thơ ra mà cấu xé đâu.
Vừa đọc xong bài thơ, trong đầu tôi
đã nghĩ ngay - Úi dà dà!!! TÂM Ý của anh chàng nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là muốn
nói về THÁI ĐỘ ĐÓN NHẬN TÌNH CẢM NÓI CHUNG VÀ TÌNH YÊU NÓI RIÊNG CỦA CON NGƯỜI
VỚI NHAU TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY đây mà! Thế là tôi hết suy, lại diễn…
Bằng thủ pháp hoán dụ, ẩn dụ nhà thơ
rất khéo léo chọn lọc 2 hình ảnh rất điển hình để dàn trải cho TÂM Ý mình, là
cô gái thì MANG HOA NHÀI. Chàng trai thì NHÌN MÂY.
HOA NHÀI nhỏ bé, bình dị không hề có
độc tính... Hương thơm của nó bền lâu ngay cả khi đã khô héo. Khi ta ngửi mùi
thơm lại rất dễ chịu làm dịu sự căng thẳng cho trí não. Từ ngàn xưa ông cha ta
đã biết được tác dụng này mà đem ướp vào trà để uống, phơi khô cho vào túi để
dưới gối, đeo bên mình…
Hình ảnh hoa nhài trong bài thơ có
thể là thực: Thực là thường ngày cô gái sống, cô làm quen với mọi người rất đơn
sơ không hào nhoáng và ngay cả khi cô đến để trao cho chàng trai tình yêu của
mình cô cũng chỉ gắn một bông hoa nhài trên tóc, trên áo thay cho đồ trang sức
bằng vàng, bạc, kim cương... lấy hương nhài thoang thoảng, tinh khiết thay cho
nước hoa mùi thơm sực nức mà bao cô gái khác thường dùng.
Lần đầu đến thăm tôi
Cô mang theo một đóa hoa
nhài
Hoa bình dị
Hoa nhài cũng là hình ảnh hoán dụ
cho hình thức, tính cách, tâm hồn cô gái…
Rồi lần sau
Cả những lần sau
Cô không mang thay đổi
sắc màu
Vẫn bình dị những đóa
nhài nho nhỏ
Cô gái như bông hoa nhài hiền dịu,
thanh cao... Cô đem đến cho người đàn ông cô yêu hương thơm ngọt ngào, êm dịu…
Cô điển hình cho những con người BÌNH DỊ
MÂY luôn ở trên cao khó với, dễ biến
đổi... hình ảnh mây ở đây ẩn dụ cho tình yêu mà chàng trai luôn tìm kiếm.
Và tôi đã suy diễn theo thủ pháp sắp
xếp từ ngữ mà tác giả Đặng Xuân Xuyến đã dùng để phán xét về thái độ đón nhận
của chàng trai khi cô gái đem sự BÌNH DỊ đến như thế nào?
Lần đầu đến thăm tôi
Cô mang theo một đóa hoa
nhài
Hoa bình dị
Tôi mỉm cười
Nhìn mây bay
Hờ hững.
Mới làm quen, thấy cô gái bình dị
cái mỉm cười của chàng cũng chỉ là xã giao. Thái độ hờ hững chưa bộc lộ ngay.
Chàng còn nhìn, còn theo dõi tình cảm của cô gái trao cho chàng... Khổ thơ đầu
từ "hờ hững" ngắt xuống dòng sau hình ảnh "nhìn mây bay".
Rồi lần sau
Cả những lần sau
Cô không mang thay đổi
sắc màu
Vẫn bình dị những đóa
nhài nho nhỏ
Và tôi cười
Hờ hững ngó mây trôi.
Suy diễn đến khổ thứ 2 thực sự xúc
cảm trong tôi trào dâng mạnh. Thương, quá thương! Ghét, rất ghét!
Thương cho người con gái đã trao
nhầm tình cảm. Cô bền bỉ yêu, luôn đem đến những điều tốt lành cho chàng trai…
Còn chàng trai đã không nhận biết
được đâu là tình cảm chân thành, tốt đẹp… còn cưới ra tiếng, cưới nhạo báng, tỏ
thái độ hững hờ ngay, chối bỏ tình cảm của cô... ở khổ này từ "hững hờ
" trước và dính liền với hình ảnh "ngó mây trôi"
Và rồi cái giá tất yếu phải trả cho
thái độ hờ hững đó là gì? Hãy xem anh ta than thở trong sự nuối tiếc
Rồi một chiều cô không
đến thăm tôi
Một ngày đông hoa nhài
không nở
Tôi ngơ ngẩn bên thiếp
hồng để ngỏ
Ngó mây trời tôi đếm
bâng quơ
Tôi trách cô vội bước
sang đò
Không thương nhớ những
cánh nhài nho nhỏ
Thấm trong tôi hương
nhài nỗi nhớ
Tôi trách mình hờ hững
ngó mây trôi.
Vậy đó! Lỗi lầm của chúng ta trong
cuộc sống thường là không nhận biết được ngay giá trị thật của tình cảm. Chỉ
đến khi mất rồi mới thấy nó đẹp, nó tốt… thể nào?. Để rồi thương nhớ, tiếc
nuối…
Bài thơ là một bài học có mang chút
tính triết lý nhưng không cứng ngắc. Nó cũng như một bông hoa nhài nho nhỏ thơm
ngát mà TÂM Ý của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến trao cho đời.
Xin giới thiệu đến bạn đọc!
*.
Đức Quốc, 02 tháng 11/2020
TRẦN THỊ HỒNG CHÂU
Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,
Garmany (Cộng hòa Liên
bang Đức).
Email: hongt4368@gmai.com
VIẾT CHO KHỜ
Triền sông chiều nay cạn gió
Ai dụi câu hò
Ai dúi cánh cò líu ríu qua sông
Ai lùa gió đốt lòng
Ai bủa giăng chim trời mà đợi
Khờ hỡi...
Biết rồi
Sao còn vít vương tơ rối.
Ngẩn ngơ chi thì thầm lời của gió
Thương nhớ gì lộc cộc tiếng ngõ khuya
Thì kệ nắng quái trưa
Thì mặc mưa mút mùa
Thì thả nụ yêu quá thì chìm nổi
Để rồi tong tẩy cuộc người
Để rồi xéo xắt miệng đời
Để rồi nụ cười bảy chìm ba trôi chín rối...
Khờ hỡi
Biết rồi
Sao nặng lòng vít vương tơ rối...
Về thôi!
*.
Hà Nội, chiều 10-09-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
KHỜ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG - CẢM NHẬN KHI ĐỌC
‘VIẾT CHO KHỜ’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chúng ta đang sống trong thời đại
4.0 mà người ta xem chữ TÌNH nhẹ phều.
Người ta có thể thay người yêu như
thay áo, có thể đem chuyện tình cảm ra mua bán, giao dịch, đổi chác... Bữa nay
quấn quýt anh anh em em, ngày mai đã quay phắt lạnh như tiền, gọi nhau thằng
này con kia... Thế nên chuyện TÌNH "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng"
mà Cụ Nguyễn Du nói đến cách nay mấy trăm năm đã xưa lắm rồi, đã dần khan hiếm
lắm rồi! Nếu có người vì tình còn vương, còn vấn, còn tiếc, còn nuối, sẽ bị
người ta cho là ĐIÊN, là KHÙNG mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến lại có hẳn một bài
thơ VIẾT CHO KHỜ về sự “điên”, “khùng” ấy với những vấn vương, tiếc nuối.
Thơ Đặng Xuân Xuyến tôi đọc cũng kha
khá và đã yêu thơ của tác giả này... Nhưng vì biết khả năng mình không thể viết
ra hết được tài điều khiển vần, điệu, chữ, nghĩa... và càng biết không thể diễn
tả hết những tâm ý sâu xa làm con tim thổn thức, làm cảm xúc rung rinh thỏa độ
ghiền, đủ độ say của mình trong những bài thơ của tác giả này, nên chỉ ngốn
ngấu cầm lên, rồi hả hê đặt xuống…
Vậy mà không hiểu sao sau khi đọc
VIẾT CHO KHỜ bài thơ cứ vấn vít không cho tôi làm gì, nghĩ gì, yêu thích gì...
cứ như hồn vía bị bắt đi, bịt mắt lại... để chỉ được nhìn nó, thì thầm, thủ thỉ
với nó mà thôi...
"Khờ" là tính từ chỉ nhân cách. Là một cách gọi ở thời đại 4.0
này cho những người có trí tuệ thông minh, nhiều hiểu biết... mà không buông bỏ
được TÌNH, còn bị TÌNH làm cho long đong lận đận, luẩn quẩn loanh quanh vương
vào rối rắm gỡ mãi không ra.
Nếu như “duyên trời” (gió) đã đưa
thứ gì đó tới cho mỗi chúng ta: Có thể là một báu vật, có thể là một bình “rượu
độc” “hương mê”… mà thế gian gọi là TÌNH để ta thương yêu, chiều chuộng, để ta
đắm chìm vào đó mà mê, mà say… thì sẽ có người may mắn được cái duyên lâu bền,
cái tình đằm thắm… Những người này thì khỏi nói, vì “duyên ấy”, “tình ấy” sẽ
nên vợ nên chồng đến răng long tóc bạc, làm gì có ai khờ ai dại ở đây! Nhưng
cũng có một số người gặp phải duyên ít, tình cạn mau để anh đi đường anh, em đi
đường em... để rồi có Khờ, có thơ VIẾT CHO KHỜ
Bài thơ VIẾT CHO KHỜ là viết cho ai?
hay cho chính tác giả?
Kệ! tôi không cần biết là ai! Chỉ
biết khi đọc bài thơ này thì thấy, Trời ơi, khờ gì mà khờ quá mức? Khờ đau, khờ
đớn, khờ hết chỗ nói, khờ hết thuốc chữa!
Phải chăng bởi tại thể loại bài thơ
là thơ tự do, phong cách lại hiện đại, phóng khoáng cho tư duy bay lên, cùng
với cách sử dụng những biện pháp tu từ đặc biệt như hoán dụ, lặp từ, so sánh…
cùng quấn quyện với hình ảnh, âm ngữ dân gian sau lũy tre làng có con sông bến
nước, có bãi mía nương dâu, như trong ca dao dân ca… đã làm tôi cứ tưởng tượng,
cứ suy diễn, cứ lan man… để rồi một hình hài, một tâm hồn, một quãng đời của
một con người rất là khờ hiện ra trước mắt tôi..
Cả bài thơ chả thấy tác giả dùng gì
đến những chữ: chia tay, ly dị, bỏ đi… mà chỉ là "cạn gió". Gió cạn được ư? - phải chăng chỉ là giữa người với
người dưới một mái nhà duyên đã tận, tình đã hết.
Bài thơ cũng chẳng kể lể dông dài
những nguyên nhân "ai" phá đi niềm vui, hạnh phúc, làm xáo trộn sự
bình yên, đã thiêu rụi cuộc tình, mà ta chỉ thấy câu hò bị "dụi",
cánh cò bị "dúi", gió bị "lùa" và chẳng thể “bủa
giăng" nhau nữa… Người ta đã buông bỏ cuộc tình này rồi, đã phủi tay, xoay
mặt sạch rồi, không vớt vát nổi tí gì nữa rồi… mà sao:
Khờ hỡi
Biết rồi
Sao còn vít vương tơ rối
"Biết rồi - sao còn vít vương tơ rối"
để rồi tự hành hạ, tự đày đọa cả thể xác lẫn tâm hồn. Để rồi biến mình, biến
cuộc sống của mình ra thế này đây:
Ngẩn ngơ chi thì thầm
lời của gió
Thương nhớ gì lộc cộc
tiếng ngõ khuya
Thì kệ nắng quái trưa
Thì mặc mưa mút mùa
Thì thả nụ yêu quá thì
chìm nổi
Để rồi tong tẩy cuộc
người
Để rồi xéo xắt miệng đời
Để rồi nụ cười bảy chìm
ba trôi chín rối...
Khờ hỡi
Biết rồi
Sao nặng lòng vít vương
tơ rối…
Về thôi
Biết tình đã mất, biết người đã phụ
bạc, biết mình đã te tua mà vẫn còn "nặng lòng vít vương tơ rối" thì
gọi là KHỜ chứ còn gọi là gì?
Mà sao cái tính cách "Khờ"
mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến vẽ bằng những biện pháp tu từ đặc biệt và những
tiếng gọi "Khờ
hỡi" - "Về thôi" lại làm tôi (người làm mẹ) nao
lòng, lo sợ đến vậy!
Phải chăng cái thời buổi ngày nay,
nhân tình thế thái đã quá tụt dốc. Giềng mối gia đình đã quá lỏng lẻo...đã đẩy
những con người, dù họ có là bác sĩ, luật sư, là ông này bà nọ,... mà quá nặng
lòng với TÌNH, khi mất tình thì họ sẽ thành kẻ khờ? Liệu ai biết được một mai
có ai cạnh mình, hay chính con mình có trở thành kẻ khờ không cơ chứ?
"Khờ hỡi - Về thôi" là tiếng
gọi diết da, là sự nhắc nhở chúng ta cố sao tôn trọng tình yêu, giữ cho trọn
tình, trọn nghĩa tào khang, đừng làm cho xã hội có nhiều KHỜ nữa.
Phải chăng tác giả cũng đang gọi
chính mình???
Bài thơ VIẾT CHO KHỜ của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến hay quá! Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.
*.
Germary, 09 tháng 10-2020
TRẦN THỊ HỒNG CHÂU
Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,
Garmany (Cộng hòa Liên
bang Đức).
Email: hongt4368@gmai.com
TRÒ ĐỜI
- Kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi -
Thôi!
Thì thôi!
Về quê
Ráng “làm người tử tế”
Chính trị vốn lưu manh
Đếch có chữ tình
Biết thế
Nên
Đếch cần xin xỏ.
Mẹ nó!
Làm người giờ càng khó
Thất thế sa cơ
Đã nản
Còn sợ
“Truy cùng diệt tận”
Đến hồi mạt vận
Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN
*.
Hà Nội, sáng 08 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “TRÒ ĐỜI” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Trò Đời, sáng tác ngày 08 tháng 05 năm
2017, với dòng chua: kính tặng nhà thơ
Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy
thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.
Được viết ở thể thơ tự do, Trò
Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo niêm luật mà
viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái nhân tình đốn
mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương chức đương
quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi nghỉ hưu
thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan
hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.
Mượn giọng bất cần của một ông quan
đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường, nhà thơ ngông
nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu manh”, “Đếch có chữ tình”,
là “truy cùng diệt tận” đối thủ chính
trị cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”,
đang cố diễn trò “Ráng
“làm người tử tế””...
Câu kết bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN,
không chỉ là sự trả giá của gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị
“truy cùng diệt tận” mà còn là lời
cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử tế, cho ra
một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.
Chữ NHÂN là nhân tâm, là phần NGƯỜI
trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
THẾ GIAN SAY
- Kính tặng nhà thơ Hoàng Xuân Họa -
.
Thế gian say đòi đập chén trở cờ
Thế gian cười.
Thế gian khóc.
Thế gian mơ
Ngật ngưỡng bước.
Khành khạch cười.
Chửi cha thiên
hạ dở!
Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!
*.
Hà Nội, chiều 04 tháng 10.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “THẾ GIAN SAY” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thế Gian Say gọi là cuộc rượu một người
cũng được hay cuộc rượu hai người cũng được. Một người vì bài thơ là lời
của Đặng Xuân Xuyến nói về thế gian say. Hai người vì bài thơ có
đề tặng nhà thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai
thi nhân đã đối ẩm với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc rượu thì nhà
thơ họ Đặng ghi lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng. Dù hiểu cách
nào thì Thế Gian Say cũng là một phiếm đàm về cái say rượu
của người đời:
Thế gian say đòi
đập chén trở cờ
Thế gian cười.
Thế gian
khóc.
Thế gian mơ
Người đời say đòi “đập chén trở cờ” rồi cười, rồi
khóc, rồi mơ, rồi thêm nữa:
Ngật ngưỡng bước.
Khành khạch cười.
Chửi cha thiên
hạ dở!
Tôi từng nghe, cũng chính người đời
đã phân ra ba loại say lớn trong thế gian: Loại thứ nhất, say
như khỉ, hết "nhảy múa rồi
đến ca hát hay chửi bới”, loại thứ hai, say
như lợn, "nặng nề, trì
trệ và muốn ngủ", loại thứ ba, say
như dê, "không có đầu óc,
nhưng dâm đãng".
Thế gian say trong
thơ Đặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất, say rồi chửi cha thiên hạ.
Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Đặng xuân Xuyến và Hoàng Xuân Hoạ?
Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế,
cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có
của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất
cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại...” Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ
Đại đã thấm gì so với Trương Tửu và bạn ông khi say:
Chửi Đông, chửi Tây chửi
tất cả
Hình như hai nhà
thơ họ Đặng và họ Hoàng rất tương đắc khi chê “Thế gian say đòi đập chén trở cờ”. Tôi tra từ điển “trở cờ” nhưng không thấy mà chỉ có “trở” được định
nghĩa “Đảo ngược vị trí đầu
thành đuôi, trên thành dưới, trái thành phải hoặc quay ngược lại đi hướng khác”. Dù
thế nào trở cờ cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng
rượu cho mình uống giờ say đòi đập nó, không xấu thì là gì?
Bài thơ Thế Gian Say hay
nhất ở câu cuối:
Rượu ba xu.
Thế gian hóa thằng rồ!
Ngày xưa, tiền chi tiêu trong dân
chúng là tiền gián, với một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới hào là xu
rồi đến chinh và kẽm. Ca dao Việt Nam có nhắc đến người nội trợ đi chợ:
Một quan tiền tốt mang
đi
Nàng mua những gì mà
tính chẳng ra
Thoạt tiên mua ba tiền
gà...
Ngày nay, đồng tiền Việt Nam được
lưu hành trong dân chúng, thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn đồng. Nhà
thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình đi chợ:
Nửa triệu tiền tốt mang
đi
Em mua những gì?- máy
tính thẩm tra
Xem vậy, rượu ba xu thời nào cũng là
thứ rượu rẻ tiền nhất. Nên cái đáng cười người đời là đã
phải uống cái thứ rượu mạt hạng ấy mà không biết mình là ai lại đòi
đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc, rồi mơ và chửi thiên
hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài
Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
Nguồn: Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi đăng
Nhận xét
Đăng nhận xét