NHỮNG CĂN NHÀ ĐỜI TÔI ĐÃ Ở - Truyện ký của Nguyễn Bàng phần 4
4.
Ngày đầu
tiên tôi đến trình công lệnh cho ông hiệu trưởng Lê Văn Thế, ông hỏi tôi đã có
chỗ ở chưa, tôi đáp chưa thì ông bảo:
- Đợi
anh chị em về đông đủ thì nhà trường sẽ phân chỗ ở cho mọi người. Đồng chí là
người về đầu tiên lên tầng hai khu B ở tạm trong phòng lớn đầu cầu thang ấy.
Nghe nói phòng này xưa là nơi hiệu trưởng làm việc đấy.
Tối hôm
đó, sau khi ăn cơm mậu dịch xong, tôi đi chơi loanh quanh phố xá một lúc thì về
căn phòng đó để ngủ. Đó là một căn phòng rộng hơn 30m2, sàn gỗ, có lò sưởi kiểu
ống khói thông lên trên trời, có cửa kính mở lối ra một hành lang nền lát gạch
hoa nhìn xuống phố Nguyễn Tri Phương. Tôi trải chiếu xuống sàn gỗ, mắc màn rồi
chui vào nằm nhưng lạ nhà lại một mình trong cả khu trường vắng lặng, tôi không
sao chợp mắt được. Thấy thế, tôi chui ra khỏi màn, mở cửa kính đi ra hành lang
mở cửa sổ nhìn xuống phố Nguyễn Tri Phương xem cảnh vật ra sao để chờ cơn buồn
ngủ sẽ đến. Nhưng đường phố Nguyễn Tri Phương cũng vắng lặng không một bóng
người qua lại Dạo đó dân sống trong nội thành Hải Phòng rất ít, chỉ mấy con phố
người dân vừa ở vừa mở cửa hàng buôn bán mơi đông đúc như phố Cầu Đất, Phan Bội
Châu…Khu trường cấp 2 Đinh Tiên Hoàng thuộc khu phố tây cũ hầu hết là cơ quan
hành chính và công sở lớn với 2 trường học nên sau giờ làm việc rất ít người và
xe cộ qua lại. Đôi lúc, một làn gió từ phía Cảng thổi vào làm mấy cái chụp bóng
đèn quả lê khẽ chao đi chao lại và mấy lùm cây đang âm thầm trong ánh sáng điện
vàng úa cũng run lên xào xạc.
Buồn
buồn, tôi nhìn xuống hai cánh cửa chớp gỗ và bỗng giật thót tim khi thấy một
ngón tay khô quắt dắt trong khe chớp dưới cùng của một cánh cửa. Sau giây lát,
tôi nhớ ra đây một thời là bệnh viện dã chiến nên có cái ngón tay khô quắt ấy
cũng là điều có thể hiểu được. Tuy vậy trong lòng tôi cũng gợn lên một nỗi sợ
viển vông với hình hình ảnh ma quỷ đang lởn vởn quanh khu trường hoang
vắng. Vừa hay lúc đó vẳng tiếng cú rúc đêm từ bên kia nghĩa địa vọng về.
Để xua
di nỗi sợ mơ hồ đó, tôi cuốn màn chiếu lại, đi xuống cầu thang sang khu A là
khu lớp học, tìm một phòng sát với khu nhà ở của một số cán bộ thành ủy trong
đó có ông bí thư, rồi kê 4 cái ghế băng ra làm giường, mắc màn và đi ngủ giống
như những ngày đầu về trường Tiền Phong hai năm trước.
Ngày hôm
sau, khi xong buổi họp hội đồng đầu tiên, ban giám hiệu họp tiếp với các giáo
viên chưa có chỗ ở. Số này cũng khá đông vì họ đều từ các trường học sinh miền
Nam nay chuyển về Đông Triều cho xa thành phố để tránh gây rối bất ổn như một
số trường trên Hà Đông đã xảy ra. Phần lớn họ cũng đều có gia đình và hầu hết
là cả hai vợ chồng cùng là giáo viên. Tôi chưa vợ con nên được xếp ở chung với
anh Thân Văn Tranh và anh Nguyễn Quang Đào trong căn phòng gác hai khu nhà B
tối qua. Anh Thân Văn Tranh, thương binh cụt một chân trong chiến dịch Điện
Biên Phủ nay được lắp chân giả do Cộng hoafdaan chủ Đức viện trợ. Anh Tranh
người huyện Thanh Hà, Hải Dương, vợ và con gái nhỏ ở quê. Anh Nguyễn Quang Đào
hơn tôi 3 tuổi, người Nghệ An cũng chưa lập gia đình.
Tôi kể
cho hai anh nghe chuyện tôi nhìn thấy ngón tay người khô quắt tối hôm qua rồi
chỉ cho hai anh thấy ngón tay đó. Anh Thân Văn Tranh bảo tôi, vậy thì cậu nhặt
nó ra gói vào một tờ giấy đem sang bên ngĩa địa đào một cái lỗ nhỏ chôn nó xuống
đấy để của ai thì vong linh người đó nhận lại. Tôi làm theo lời anh rồi về bảo
cả hai anh Tranh và Đào
- Hai
anh ngủ trong phòng sàn gỗ để em ngủ ngoài hành lang vì em hay đọc sách khuya
sợ làm ảnh hưởng đến hai anh.
Cả hai
anh cùng nhất trí với tôi. Thế là tôi lau dọn sạch hành lang chọn đầu bên phải
làm nơi ở mới.
Sáng hôm
sau, công đoàn trường thông báo, trường học sinh miền Nam số 19 Cầu Rào giải
thể, có một số giường cũ của học sinh nay giao lại cho công đoàn sở bán phân
phối cho giáo viên các trường, ai mua thì đăng ký, 8 đồng một cái, không phân
biệt giáo ở trong trường hay có nhà ở ngoài phố. Tôi, anh Tranh và anh Đào đăng
ký nộp tiền mua mỗi người 1 cái, Ngay chiều hôm đó người của công đoàn
trường cho xích lô chở giường về giao cho mọi người. Tôi đưa giường lên hành
lang, lắp ghép rồi kê vào một góc. Đúng là giường một, không thể hai người nằm
chung vì chiều dài giường có 1,8m, chiều rộng đúng 80 phân!
Năm sau
phòng tôi ở có thêm hai giáo viên mới ra trường: anh Lê Minh Phượng người Hưng
Yên dạy môn thể dục, anh Nguyễn Đình Quyết, quê Đồ Sơn cháu gọi ông đương kim
giám đốc Sở Giáo dục Hải Phòng Hoàng Xạ bằng bác (mẹ anh Quyết là em gái ông
Xạ). Căn phòng sàn gỗ giờ thêm hai giường, vậy là 4 góc 4 giường còn tôi vẫn ở
ngoài hành lang. Không khí trong phòng giờ vui hẳn lên. Sáng dậy thể dục cả 5
anh em đều xuống sân trường tập. Tập xong, trừ anh Thân Văn Tranh đi một chân
gỗ , 4 anh em lại vào tắm chung trong một phòng tập thể rộng có bể nước công
cộng khá to. Trưa chiều thì, những ai không phải dạy dạy tiết cuối lại
cùng nhau ra ăn cơm ở Nhà ăn tập thể số 3 của thành phố ở cùng phố cách trường
chỉ vài trăm mét. Tối đến thường 5 anh em ngồi quanh 4 cái giường chuyện trò
với nhau đủ các đề tài trước khi đi ngủ.
Ba năm
sau, 1965 tôi lấy vợ, một công nhân xưởng chế biến nhà máy cá hộp Hạ Long. Nhà
trường bố trí cho tôi một căn phòng nhỏ rộng 8m2 ở bên khu A để hai vợ chòng
được ở riêng cho tiện. Căn phòng 8m2 nhỏ bé này nguyên là nơi đi
tiểu hồi trường làm bệnh viện dã chiến, nay tu chỉnh lại và phân cho cô giáo
Đào Phương Nga dạy Toán và sinh vật ở. Cô Phương Nga có một con gái mới Gần một
tuổi, chồng cô đang du học ở Liên Xô. Cuối hè năm 1964, anh ấy về nước được
công tác và phân nhà trên Hà Nội nên đã đón vợ con lên trên đó vì thế căn phòng
này tạm bỏ không đã mấy tháng.
Căn
phòng tuy chỉ có 8m2, dài 4m rộng 2m nhưng cũng được ngăn ra thành 2 ô nhỏ
thông nhau ở giữa, mỗi ô rộng 4m2, có cửa gỗ mở lối đi xuống hành lang ngoài
trời khá rộng chạy dài hết phía sau của trường coi như một con đường dẫn ra sân
trường rồi từ sân trường ra cổng trường và ra hè phố. Vợ chồng tôi kê cái
giường ba xà vào ngăn trong. Đó là cái giường được mua phân phối theo giấy đăng
ký kết hôn mất 36 đồng 5 hào, dài 1,9m rộng 1,5 mét nên vừa gần kín hết cái ô
4m2. Ô 4m2 bên ngoài, tôi kê cái giường một đem từ phòng ở tập thể khu B
xuống. Hai giường cách nhau không đến 2m nên còn chỗ đặt một cái bàn nhỏ mượn
nhà trường để làm việc.
Tháng
năm 1965, tôi cùng anh Lê Minh Phượng và anh Nguyễn Đình Quyết phải nhập ngũ.
Căn phòng nhỏ bé đó chỉ còn lại một mình vợ tôi đang mang thai đứa con đầu
lòng.
Chúng
tôi được đưa lên Hải Dương, tập trung trong doanh trại của trường Quân chính
quân khu Ba để huấn luyện tân binh.Tôi thực sự không hiểu sao khu đội lại gọi
tôi nhập ngũ vì khi đi khám sức khoẻ họ đã ghi tôi bị cận thị, phải đeo
kính cận số 3,5 và tôi khai đã đeo từ năm 15 tuổi, bắt đầu học trung học. Vì
vậy, khi một sĩ quan trung tá ở quân khu Ba về kiểm tra tân binh, thấy có một
lính mới đeo kính đứng trong hàng ngũ, ông ta đã gọi tôi lên và nghiêm khắc
hỏi:
- Ai cho
phép đồng chí đeo kính trắng khi đứng trong hàng ngũ?
Tôi đáp
vì tôi bị cận thị phải đeo kính từ hồi còn đi học nhưng ông ta không tin cho
gọi viên chuẩn uý phụ trách huấn luyện lên hỏi. Anh này nói trong lý lịch sức
khoẻ tân binh của tôi đã xác nhận đúng như thế chứ không phải tôi vô kỷ luật.
Vì vậy, xong ba tháng huấn luyện tân binh, anh Phượng và anh Quyết cùng đồng
đội tiếp tục lên Hoà Bình để đi B còn tôi thì được gọi lên ban chỉ huy đóng ở
bến đò Hàn thuộc xã An Châu, huyện Nam Sách bên kia sông Thái Bình. Vẫn
viên trung tá về kiểm tra huấn luyện tân binh hôm nọ nói với tôi:
- Đơn vị
mới của chúng ta đang chuẩn bị vào B chiến đấu nhưng xét thấy sức khoẻ của đồng
chí phải đeo kính cận, không đảm bảo công việc ở chiến trường. Vì vậy lãnh đạo
quyết định cho đồng chí thoái ngũ.
Tôi nói:
- Tôi đã
nhập ngũ, đã là người lính rồi, không trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận được
thì các đồng chí cho tôi làm việc gì trong quân đội tôi cũng chấp hành.
Viên
trung tá nói:
- Giờ
đang thời chiến, cần nhất người cầm súng ra trận thôi. Mà bên giáo dục cũng có
công văn yêu cầu trả về một số giáo viên cho họ vì đế quốc Mỹ leo thang bắn phá
miền Bắc, các trường học chỉ sơ tán về nông thôn chứ không có đóng cửa. Đồng
chí cứ chấp hành quyết định tôi vừa nói. Ngay sáng mai, khi tiễn đưa đơn vị
chuyển lên Hoà Bình xong thì đồng chí sang đây lấy giấy tờ thoái ngũ.
Tối hôm
đó tôi và một số anh em không phải chuyển quân cùng với anh chị nuôi thức suốt
đêm kẹp thịt lợn rán vào bánh mì làm lương ăn cho anh em sáng hôm sau lên
đường. Tôi gặp riêng anh Lê Minh Phượng và anh Nguyễn Đình Quyết cùng mấy anh
em khác mới kết thân với nhau từ hôm nhập ngũ ở Hải Phòng, chuyện trò đôi lời
và chúc họ lên đường bình an may mắn. Khi họ lên đường ra ga Hải Dương thì tôi
sang bên kia sông lấy giấy tờ rồi chờ tối cũng ra ga đợi tàu về lại Hải Phòng.
Dạo ấy,
miền Bắc đã vào thời chiến tranh phá hoại bởi Mỹ đã ném bom ở cửa sông Gianh,
Vinh, Bến Thuỷ từ ngày 5/8/1964 rồi lại ném bom ở thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ
ngày 7/2/1965 nên xe lửa đi đêm rất chậm. Từ Hải Dương về Hải Phòng có hơn 40km
mà mất tới 5 tiếng đồng hồ nên khoảng 1 giờ đêm tôi mới về đến trường cấp hai
Đinh Tiên Hoàng. Tôi thấy phòng trực bên gốc cây sung già ở cổng trường đóng
cửa tối om và không khói bên trong khu trường im ắng lạ thường nên đoán mọi
người đang ngủ say. Không dám gọi ai, tôi đành phải trèo qua hàng rào sắt làm
từ thời Pháp vào bên trong rồi đi qua sân trường vòng vào lối hành lang ngoài
trời phía sau để về căn phòng 8m2 của mình. Trong phòng, vợ tôi cũng đã ngủ.
Tôi khẽ gõ cửa và thấy cô ấy tỉnh giấc rồi cất giọng sợ hãi hỏi:
- Ai
đấy?
- Anh
đây! – Tôi khẽ đáp.
- Có
thật không?
- Thật
mà.
- Sao
anh lại về giữa đêm hôm thế này?
- Anh
được thoái ngũ về hẳn rồi.
- Em
không tin, hay là anh trốn đơn vị?
- Thì em
cứ bật đèn lên cho anh vào đã rồi nói chuyện sau.
Vợ tôi
bật đèn mở cửa rồi chúng tôi ôm chặt lấy nhau mừng mừng tủi tủi. Vậy là tôi đã
trở về với người vợ yêu dấu và căn phòng nhỏ bé 8m2 của mình.
rất hấp dẫn
Trả lờiXóa