NHỮNG CĂN NHÀ ĐỜI TÔI ĐÃ Ở - Truyện ký của Nguyễn Bàng phần 5
5.
Sáng hôm
sau tôi mới biết, trường cấp hai Đinh Tiên Hoàng đã sơ tán về xã Đông Sơn huyện
Thuỷ Nguyên theo cách bê nguyên tất cả học sinh và giáo viên trừ những ai có
nguyện vọng xin chuyển trường cho phù hợp với hoàn cảnh riêng. Nhà trường bây
giờ bị lấy làm kho cho cty lương thực cấp 1, nay họ chuyển các bao thóc gạo
đến, mai lại chuyển đi chỉ còn lại những bao đựng trấu. Anh Quang bảo vệ chính
của kho là người miền Nam tập kết nói với tôi rằng đó là kế nghi binh để bọn
gián điệp không biết thực hư ra sao mà chỉ điểm cho máy bay Mỹ ném bom. Khắp
sân trường rộng lớn, người ta đã cho đào và xây các hầm tránh bom đạn. Tùy theo
địa thế, cái thì hình chư nhật, cái thì hình chư T, cái thì hình chữ L, cái nào
cũng có 2 cửa có bậc lên xuống.
Các gia
đình giáo viên ở trong trường cũng đã sơ tán hết ra ngoại thành nên bên cty
lương thực bắt đầu cho một số cán bộ công nhân viên của họ đến ở các căn phòng
của các gia đình giáo viên bỏ trống. Người cũ duy nhất còn ở lại trường là ông
Hoàng Ngọc Khánh, chồng bà Tô Thị Oanh. Bà Oanh hồi kháng chiến 9 năm học ở khu
Học xá Nam Ninh sau năm 1954 về Việt Nam là giáo viên dạy tiếng Trung giờ cũng
sang Thủy Nguyên theo trường. Ông Khánh là cán bộ miền Nam tập kết làm trưởng
phòng kế hoạch cty vân tải đường sông, mà cty không có kế hoạch sơ tán.
Phòng nhà vợ chồng ông Khánh bà Oanh rộng 20m2 vì nhà họ có hai vợ chồng và 2
con, Phòng này vốn trướcđây cùng với phòng nhà tôi là một, dùng làm nơi
tắm rửa và vệ sinh hồi trường làm bệnh viên nay 2 nhà chỉ ngăncách nhau bằng
một cánh cửa gỗ.
Việc của
tôi là lên trình báo giấy tờ cho phòng tổ chức cán bộ của Sở Giáo dục. Họ nói,
trường cũ đã sơ tán ổn định hết rồi nên bố trí tôi sang làm việc bên Ban tuyển
sinh của thành phố rồi cấp giấy giới thiệu để tôi sang bên công an xin nhập lại
hộ khẩu.
Vậy là
sau gần 4 tháng, tôi lại về với căn phòng 8m2 nhưng nay nơi đất tôi sống không
còn là của trường cấp hai Đinh Tiên Hoàng mà là kho lương thực thời đối phó với
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Ngày 5
tháng 10 năm 1965, vợ tôi hạ sinh đứa con trai đầu lòng. Căn phòng nhỏ bé có thêm
một nhân khẩu mới. Để giúp đỡ vợ chồng tôi chăm nuôi con nhỏ, bà Đàm Thị Đậu là
bà nội của vợ tôi ở dưới phố Cầu Đất tối nào cũng lên ngủ cùng cháu gái để bế
ẵm chăm nom giấc ngủ cho thằng bé chắt ngoại. Cái giường ba xà dành riêng cho
cụ ngoại và hai mẹ con cháu. Tôi ngủ trên cái giường một.
Sang năm
1966, Mỹ bắt đầu mở rộng bắn phá trên miền BắcViệt Nam. Nhà máy cá hộp Hạ Long
bắt đầu có kế hoạch sơ tán đại bộ phận sản xuất lên vùng đồi núi Bắc
Giang để chuyển đổi dần sang sản xuất đồ hộp rau quả. Vợ tôi có tên trong số
công nhân viên phải lên Bắc Giang nhưng do con mới sinh còn quá nhỏ nên làm đơn
xin nghỉ việc, được trợ cấp 3 tháng lương. Tôi bàn với vợ làm hồ sơ xin
đi học trung cấp chuyên nghiệp thì cô ấy nói:
- Ai
người ta duyệt cho em đi học mà làm hồ sơ. Anh cũng đã biết năm 1963, sau khi
tốt nghiệp cấp hai em cũng đã nộp đơn xin đi học trung cấp y nhưng không được
xét duyệt vì lý lịch có ông bố làm cảnh binh thời thuộc Pháp, sau xin học y
tá sơ cấp cũng không được nên phải ra Cảng làm công nhân cân đóng các bao
ngô rồi xin vào nhà máy cá hộp Hạ Long.
Tôi bảo:
- Em cứ
làm rồi về khu phố cũ xin chứng nhận đưa anh đem nộp cho ban tuyển sinh thành
phó. Giờ anh làm cán bộ của ban tuyển sinh mà.
Công
việc của tôi ở ban tuyển sinh là đọc các hồ sơ xin học, ghi tóm tát lý lịch
riêng ra một cuốn sổ bao gồm các mục thành phần gia đình, nghề nghiệp trước
ngày Hải Phòng giải phóng và nghề nghiệp hiện tại của bố mẹ thí sinh, đặc biệt
là lời nhận xét của chính quyền sở tại để khi họp xét duyệt thì dọc lên cho mọi
người nghe và thống nhất cho thí sinh đó được đi học ngành nghề nào hoặc không
xét duyêt cho đi học.
Hôm đến
tên thí sinh là vợ tôi, vừa nghe xong bản tóm tắt của chính tôi, một ông trong
ban xét duyệt đã nói ngay:
- Thí
sinh này không được vì có bố là ngụy quân ngụy quyền thời Pháp.
Tôi
cũng nói ngay:
- Hồ sơ
này là của vợ tôi. Cô ấy đang làm công nhân nhà máy cá hộp Hạ Long nhưng nay
phải chuyển lên Bắc Giang nên đã xin nghỉ việc vì mới sinh con. Đề nghị các
đồng chí chiếu cố cho.
Nghe tôi
nói thế, ông Trần Đình Tróc, trưởng ban đáp luôn:
- Nếu là
vợ đồng chí trong ban ta, tôi thấy nên chiếu cố duyệt cho đi học.
Không ai có ý kiến gì, ông Tróc hỏi tôi:
- Vậy vợ
đồng chí có nguyện vọng học ngành nào?
- Dạ,
trung cấp sư phạm ạ, để tiện sau này cả hai vợ chồng sơ tán ở đâu thì xin cùng
về ở đó.
- Nghe
được đấy – ông Tróc cười rồi lấy biểu quyết và hồ sơ của vợ tôi được xét duyệt.
Trường
Sư phạm trung cấp Hải Phòng từ năm học 1965 – 1966 đã sơ tán về xã Cộng Hiền,
huyện Vĩnh Bảo cách thành phố 50km. Vì vậy khi vợ tôi có giấy gọi nhập học năm
1966 mà đứa con đầu lòng chưa đầy một tuổi khiến tôi phải xin thôi làm ở
ban tuyển sinh và xin về dạy tại huyện Vĩnh Bảo để giúp đỡ vợ trong việc nuôi
con. Người ta xếp cho tôi về trường cấp 2 của xã Tiền Phong cách xã Cộng Hiền
theo đường bộ gần 2km nhưng di tắt qua một cánh ruộng thì gần hơn cả cây
số nên vợ tôi sang trường sư phạm bên xã Cộng Hiền học từ sáng đến hết
giờ học chiều thì lại về trường Tiền Phong với chồng con.
Ở trường
cấp 2 Tiền Phong, ban giám hiệu không bố trí tôi dạy phổ thông mà làm giáo viên
chuyên trách bổ túc văn hóa của xã, công việc chủ yếu là vận động bà con xã
viên đi học, tổ chức các lớp học buổi tối và mời giáo viên phổ thông về dạy chủ
yếu hai môn Văn, Toán. Tham gia các buổi họp văn hóa của ủy ban nhân dân xã
cùng các cuộc họp tổ sản xuất, đoàn thanh niên và phụ nữ xa. Công việc này
không giáo viên nào muốn làm vì nó không có thời khóa biểu cụ thể như dạy phổ
thông hết tiết dạy là về nghỉ đã vậy các tối thứ hai thứ năm hàng tuần thì đến
các lớp học xem học viên học hành ra sao mà các lớp học thì rải rác thôn này
thôn kia, xóm này xóm khác, nhiều khi phải băng qua cả cánh đồng hay bãi hoang
mới tới lớp của học viên học. Nhưng với tôi thì công việc này lại có mặt thuận
lợi cho hoàn cảnh của gia đình mình vì con tôi còn phải bế ẵm, tối mẹ nó được
về nhà trông nom nó cho tôi xuống các lớp bổ túc, ban ngày phải đi họp tôi mang
con đi theo, đến chỗ họp không thiếu các bác các cô bế ẵm trông nom đỡ một tay.
Giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá còn một việc nữa là một năm xuân thu nhị
kỳ lo tổ chức liên hoan mở lớp và bế lớp cho các học viên cùng các quan khách:
Đi xin phiếu mua thịt lợn của HTX mua bán hoặc lo tìm mua một con chó tơ béo
ngon để làm cỗ.
Khu đất
trường cấp 2 xã Tiền Phong khá rộng. Một dãy nhà một tầng tường gạch mái ngói
là các lớp cho học sinh học nhìn xuống khu sân chơi rộng rãi nay để phòng tránh
máy bay các hầm chữ A cốt tre phủ đất được dựng lên trong san, bên cạnh
các hầm là các bụi chuối xanh um tùm. Phía phải sân là dãy nhà giáo viên gồm ba
phòng nền đất tường vách trát bằng bùn trộn rơm, mái lớp rạ. Phòng đầu phân cho
anh Phạm Văn Xuyên người Thái Bình chưa vợ con, phòng giữa phân cho vợ chồng
tôi, phòng cuối phân cho chị Vũ Thuần Anh dạy toán có 2 con gái nhỏ và chồng là
anh Trần Mậu Thưởng, hiệu phó trường sư phạm trung cấp bên xã Cộng Hiền. Một
dãy nhà nữa cho giáo viên ở cuối sân nhìn lên dãy lớp học gồm 4 phòng, từ ngoài
vào trong là phòng ở của hiệu trưởng và 3 phòng cho 3 anh khác đã lập gia đình
nhưng vợ con ở Thái Bình.
Tôi nhận
phòng ở nhưng chưa có giường. May sao được ngay anh Vũ Thiết Kế, người bạn quen
thân hồi học lớp chính trị ở xã Đại Thắng Tiên Lãng cho mượn một cái giường tre
do chính bố anh tự tay đóng bằng tre của gia đình trồng quanh nhà. Anh kế dạy
văn, người xã Tiền Phong nhưng không dạy trường xã nhà mà dạy trường Đồng Minh
xã bên cạnh.
Năm học
sau, tôi được điều sang trường xã Cộng Hiền nơi có trường sư phạm vợ tôi đang
học năm thứ hai. Tôi không phải phụ trách phong trào bổ túc văn hóa xã nữa mà
giảng dạy trên lớp. Trường cấp hai Cộng Hiền không có nhà cho giáo viên vì vậy
tôi phải ở nhờ căn nhà ngang của chị Giới. Anh Giới chồng chị đi bộ dội,
nhà chỉ có chị và thằng cu Biên mới 4 tuổi. Hai mẹ con ở căn nhà trên ba gian
nhường cho tôi căn nhà dưới chỉ có một gian cũng tường trình đất, mái lợp rạ.
Căn nhà nhỏ nhưng cũng kê cái giừơng tre vẫn còn thừa một nửa không gian.
Bây giờ anh Kế nói cho hẳn tôi cái giường tre chứ không phải là cho mượn
nữa.
Ở nhờ
nhà chị Giới chỉ khổ mỗi cái nước ăn uống và tắm giặt. Tất tật mọi nước dùng
sinh hoạt đều lấy từ một cái ao nhỏ đào bên cái sân đất trước căn nhà ba
gian hai mẹ con chị Giới ở nên nước không sạch, đã thế nhà chị lại nuôi mấy con
vịt, khi không ra đồng kiếm ăn chúng đều bơi lội mò lặn trong ao. Nhưng không
còn cách nào dể có nước dùng, cũng đành nhắm mắt tuân theo số phận là tắm
giặt bằng nước cái ao đó. Riêng nước ăn, tôi dùng lá mồng tơi để hút bẩn
làm cho nước trong lên và bảo chị Giới làm theo.
Nghỉ hè
năm đó, thấy trường cấp 1 Cộng Hiền có một gian nhà nhỏ tường đất mái rạ vốn
làm nơi chứa trấu và than củi nay bỏ không, tôi xin dọn ra đó ở cho thoáng mát
và tiện bề nước sinh hoạt vì phía sau căn nhà là một con mương lớn thuyền nỏ có
thể đi được, tắm giặt và lấy nước lên để lắng trong ăn uống cũng sạch hơn nước
ao nhà chị Giới. Nhưng chưa hết hè thì gian nhà này đã phải hứng chịu một
cơn bão lớn nhất vào đêm ngày 14/8/1968 và bị sập đổ, may là cả nhà tôi
không ai bị nạn
Nguyên
do từ ngày 1/8 huyện tổ chức lớp học chính trị hè cho giáo viên cấp 2 ở xã Hòa
Bình, cách xã Cộng Hiền hơn 10km vì vậy đa phần học xong, anh chị em đều ở lại
đến chiều thứ 7 mới về. Tôi cũng thế. Thời gian này vợ tôi đã học xong năm thứ
2 sư phạm trung cấp, đã thi ra trường và đang chờ phân công. Cũng thời gian này
vợ tôi đang mang thai đứa con thứ hai sắp đến ngày sinh. Vì vậy, bà nội của vợ
tôi là cụ Đàm Thị Đậu đã phải từ Hải Phòng vào Cộng Hiền để giúp đỡ cháu gái.
Tôi đi học chính trị nên chỉ có 3 ngưới là bà cụ, vợ tôi và thằng cu con gần ba
tuổi ở nhà.
Vừa tối
xuống thì trời trở bão. Khi bão bắt đầu mạnh lên thì nhà tôi đau đẻ, bà nội
phải vào xóm gọi một cô giáo ra dìu nhà tôi sang trạm xá. Trong gian nhà chỉ cò
cụ và thằng chắt ngoại. Cụ cứ ôm cháu co ro trong gió lạnh của bão để
thằng bé khỏi sợ. Đến gần nửa đêm, thấy gió mạnh gào rít lên khủng khiếp lại
thêm mưa to như trời đổ nước xuống, mái rạ lợp căn nhà bắt đầu rung lên bần bật
rồi bị gió cuốn đi một mảng khiến nước mưa đổ xuống nền nhà ướt sũng. Cụ sợ quá
vội ôm cháu đội mưa chạy lên khu trường nhà ngói và chui vào một lớp học. Cửa
lớp vừa đóng lại thì nghe tiếng gian nhà tường đất dưới sân trường đổ sập .
Sáng hôm
sau, mới mờ đất nhưng thấy gió bão đã giảm nhiều tôi vội đạp xe về Cộng Hiền.
Đường trong xã Hoà Bình còn đạp xe được nhưng lên đến đường huyện thì ngược gió
lại thêm mưa vẫn còn lớn, phải gò lưng lội bộ đẩy xe tiến về phía trước. Mãi
khi trời hửng mưa gió mới ngớt mới có thể lên xe đạp mà đi.
Về đến
con đường đầu làng Cộng Hiền, mấy em học sinh đang đứng bên gốc cây đa xem cảnh
bão tàn phá đêm qua. Trông thấy tôi, chúng nhanh nhảu chào. Một em gái lớn tuổi
nhất đám nói:
- Cô nở
em bé gái rồi thầy ạ. Chúng em vừa ra thăm cô ở trạm xá. Nhưng nhà thầy ở bị
bão đánh đổ sập hết rồi.
Tôi cảm
ơn các em rồi đạp luôn xe ra trạm xá. Hai cụ cháu thằng cu nhà tôi đã đang ở
đó. Nhà tôi mừng mừng tủi tủi vừa cho con nhỏ bú vừa kể chuyện đã thoát một đêm
kinh hoàng của trời đất ra sao rồi bảo tôi:
- Anh
qua phòng trực cám ơn y sỹ Bang đi. Đêm qua, bác Bang trạm trưởng đã mất 4 cục
pin to để thắp sáng thay đèn dầu cùng cô hộ lý đỡ đẻ cho em đấy!
truyện rất hay
Trả lờiXóa